PHẦN II – Trang thơ xưa và nay về Ngũ Hành Sơn

Ngũ Hành Sơn từ xưa đến nay luôn là đối tượng hướng đến của những nhà nghiên cứu về văn hóa – lịch sử, là nguồn cảm xúc bất tận trước vẽ đẹp thiên nhiên kỳ bí mà các danh nhân, nghệ sĩ đã thể hiện qua các tác phẩm thơ ca, nhạc họa, điêu khắc, nhiếp ảnh…

Trong phạm vi trang Website của một đơn vị quản lý, chúng tôi xin trân được giới thiệu trang thơ Ngũ Hành Sơn xưa và nay đến với bạn đọc, xem đây là một phần trách nhiệm của những người làm công tác văn hóa – du lịch trong việc lưu giữ và giới thiệu những bài thơ hay của các danh nhân, thi sĩ đã từng tâm huyết với Ngũ Hành Sơn qua các thời đại.

Tổ Quảng bá sư tầm và giới thiệu

ĐÁO NGŨ HÀNH SƠN

Tam nguyên Tôn Thất Mỹ (Nguyên tác)

Thắng tình ngã điệu cố tri giao

Tam thập niên lai hựu nhất tao

Động nhập Huyền Không thiên dục tiểu

Sơn lâm nguyệt đỉnh địa giai cao

Bách niên du khách thùy tiên ngã

Mãn bính thi tiêu thạch tợ sao

Cách vô văn xứ tác tiêu dao.

 

ĐẾN NGŨ HÀNH SƠN

Nguyễn Bội Liên (Tạm dịch)

Sáng ở ngoài Kinh, xế đến Hàn

Lá buồm lần nẽo Ngũ Hành Sơn

Chữ đề Linh Ứng Chùa Non Nước

Dấu tạc Huyền Không tượng Phật vàng

Cây cỏ những khoe cùng tuế nguyệt

Lửa hương còn quyện với gian san

Sanh thành thử ngẫm có trời đất

Khéo để riêng cho một cõi nhàn

 

NGŨ SƠN LĨNH PHẠM ÂM

TS. Nguyễn Văn Lý (Chí Đình)

Thùy phúc Ngũ Sơn lĩnh phạm âm

Phiêu nhiên khánh phát đáo tùng lâm

Hải thanh dữ liễu thiên phong khởi

Bồng sắc hòa thông trúc kính trần

Hà nhật giao vân phi tích trượng

Nhất thiên minh nguyệt ấn thiền tâm

Khước tri tứ đại chân hư tịch

Mạnh lãng đông pha bất giác khâm.

NGŨ SƠN NGÂM TIẾNG PHẬT

TS.Lương Văn Kế (dịch)

Ai lại Ngũ Sơn ngâm tiếng phật

Thung dung khách phát dưới rừng thông

Biển sóng liễu xanh vươn trời lộng

Non bồng tùng trúc bóng lên gương

Hôm nao tích trượng bay mây thắm

Một trời trăng tỏ dấu thiền tâm

Tứ đại chân hư ta vẫn biết

Cúi đầu trước ngọn sóng triều đông.

 

 

NHỚ CẢNH NON NƯỚC

Thiên Hòa Tử Ôn Quy Thiện

Kể từ ngày ấy đến hôm nay

Non Nước ghi chân bạn cũ này

Ông chủ năm xưa đâu rồi nhỉ?

Nào non nào nước biết chăng hay.

 

ĐÊM SAO – VỌNG HẢI ĐÀI

Vũ Minh (Hội An, Thu 1999)

trong tạp chí “Non Nước”, tháng 9-1999, tr.54

Anh đi tìm mấy vần thơ

Lạc qua Non Nước bao giờ gặp em

Đá mòn núi lở mòn thêm

Còn đâu giây phút êm đềm thuở xưa!

Cuối hè ve gọi trời mưa

Mùa hoa lử rụng cũng vừa sang thu!

Sau ngày giải phóng nguc tù

Em về Hòa Hải, giã từ Hội An…

Ơi cô du kích sông Hàn

Đưa đò bộ đội dọc ngang đôi bờ!

Ngũ Hành Sơn đẹp như mơ

Trăng nghiêng bến cũ đợi chờ người thương

Giữ từng đất quê hương

Giữ từng ngọn núi mở đường chim bay…

Bước lên Vọng Hải Đài mây

Nhìn Thông Thiên Động sáng đầy trời sao

Huyền Không – dáng mẹ tự hào

Che bom đỡ đạn gian nan tháng ngày,

Hỡi người chạm đá ngừng tay

Mai sau núi mất biết xoay lối nào?

Biển ru tiếng sóng dạt dào

Chèo đò em hát đêm nào dưới trăng

Ngôi sao băng… ngôi sao băng

Gọi ta chung giữ đất bằng núi cao!

 

TRĂNG NƯỚC NGŨ HÀNH

Hoàng Vy Khanh

 

 

Đất Quảng quê tôi có Ngũ Hành

Trước biển, sau sông, xóm làng mộc mạc

Miền cát trắng êm êm lời sóng hát

Đêm vọng về trong trẻo tiếng chuông ngân,

Ai về đây lòng chẳng thấy bâng khuâng

Một thắng tích lừng danh từ cổ sử…

 

Năm cụm núi như trầm tư ấp ủ

Qua bao đời ôm nghĩa nước tình non

Bóng Phật thiền trong thạch động vô ngôn

Theo hương khói tỏa thơm từng cành lá…

Từng thế kỷ khắc tình lên phiến đá

Người mỗi cảnh mỗi quê – không hề xa lạ

Mắt thay lời ôi chan chứa bao dung

Dù ở nơi đâu biển tận, núi cùng

Hồn vẫn thấy nhẹ nhàng nơi cảnh Phật

Tạm quên lắng bao niềm đau, vật chất…

Hẹn nhau về trẩy hội giữa mùa xuân

Muôn cánh chim từ hoang đảo xa xăm

Về reo hò dưới tàng cây cỏ nội

Những đêm thanh trăng trải vàng khắp lối

Soi nếp chùa thơm thảo bóng phương Đông

Sớm Giang đài nhìn về phía dòng sông

Nắng lụa quyện giữa ngàn sương bàng bạc

Gió Vọng Hải từ biển xanh bát ngát

Mỗi chiều chiều ru giấc ngủ ai say

Êm ả lời kinh khoan, nhặt, vơi, đầy…

Như khúc nhạc vọng sâu từ lòng đá.

Cuộc sống người dân dẫu trăm chiều vất vả

Vẫn âm thầm tô nét đẹp quê hương

Chạm đá, tạc hình gởi tới ngàn phương

Cho Trăng Nước Ngũ Hành thêm hương sắc

Gọi người phương xa cùng về đây góp mặt

Với Ngũ Hành của Đất Quảng thêm yêu…


HANG ĐỘNG NGŨ HÀNH SƠN

Hàn Hải Lê Bá Trinh (1901)

Cỏ cây một đám rộng um tùm

Vết đá trông xa ngỡ chú hùm

Gió thốc miệng hang gầm buổi sáng

Mây vần chân núi nép chiêu hôm

Mạch long áp đất dừng chân đứng

Bóng thỏ chân trời biếc mắt non

Nghe nói hang tiên, ta đến thử

Đã vào trong động, hẳn không chùn

CẨM THẠCH NGŨ HÀNH

Hàn Hải Lê Bá Trinh (Nguyên tác)

Ngũ nhạc du quy hậu

Nam châu hữu Ngũ Hành

Thạch trung hàm ngũ sắc

Nghiễm nhược ngũ tinh minh

Tạm tạm nhơn giai kiến

Kham nham chúng phẩm bình

Khuê trung hậu bất dị

Phác ngọc tự hỗn thành

Xúc sử vi vân hóa

Khả hàm tắc hải bình

Hình đồng quan chiếu thặng

Phẩm trong giá liên thành

Sấu chẩm nghi tùng ẩn

Giang lưu bất chuyển hoành

Điểm đầu y cổ miếu

Thái miếu kiêu tứ thanh.

 

ĐÁ CẨM THẠCH NGŨ HÀNH SƠN

Nguyễn Bội Liên (Tạm dịch)

Từng lên chơi Ngũ nhạc

Nam châu sánh Ngũ Hành

Đủ năm màu chất đá

Tợ năm sao long lanh

Càng lên càng thấy rõ

Vòi vọi chúng đều xinh

Sánh khuê trung chẳng khác

Dáng ngọc lúc kết thành

Khiến được theo mây hóa

Lấp bằng biển bất bình

Đính trên xe chói rạng

Giá ngang bích liên thành

Gối thấm hình nên ẩn

Sông trôi chẳng chuyển mình

Gật đầu nương miếu cổ

Thái thú thấy trong xanh.

 

 

NĂM CỤM NÚI QUÊ HƯƠNG

Tường Linh

Đà Nẵng đêm 1-11-1954

(Trong “Hòn Kẽm Đá Dừng”tr 126-129 Nxb Tuổi Trẻ, 2001. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Minh Kỳ phổ nhạc năm 1974).

Anh thương binh trở về nguyên quán

Một bàn tay vĩnh viễn gởi sa trường

Anh trở lại, với bàn tay còn lại

Vẫy vẫy chào Non Nước quê hương

 

Quê hương anh mây giăng đèo Hải

Chiều ấu thơ êm ả câu hò

Nước mấy nguồn sông hẹn về Cửa Đại

Ngũ Hành Sơn năm cụm núi xanh lơ

 

Anh lớn lên giữa bài ca châu thổ

Những mùa thu ngọt trái Nam Trân

Biển xa lộng gió

Thuyền lưới đầy khoang cá trắng ngần.

 

Mẹ thường kể anh nghe

Chuyện mẹ cùng cha

Ngày xưa đôi lứa

Trai lành, gái đảm thương nhau

 

Bến nước sông sau

Nhịp cầu, giếng xóm…

Cô gái mười lăm hái hoa bắt bướm

Nắng sớm thêm vàng màu áo lụa Duy Xuyên

 

Cậu trai xóm dưới ngoan hiền

Đêm khuya khoắt học bài bên bếp lửa

Ngoại già thương “hai đứa”

Ngoại già cho lấy nhau

 

Vài buồng cau, mấy liễn trầu

Đám cưới đi ngang bờ sông hoa gạo đỏ

Biển lộng, buồm khơi ăm ắp gió

Ngũ Hành năm cụm xanh xanh

Cha mẹ chỉ tay thề với núi:

Mỗi ngón tay ngang một cụm Ngũ Hành

Năm cụm núi không thể nào thiếu một

Năm ngón tay không thể chia lìa

Lời mẹ đều đều

Sương rụng vườn khuya

Anh ra đi từ mùa thu quê hương bốc lửa

Rừng xa, xa rồi những lứa Nam Trân

Mẹ đã già và cha không còn nữa

Mây dăng mờ trên đỉnh Hải Vân

Chiều hôm nay anh trở về nguyên quán

Một bàn tay vĩnh viễn gởi sa trường

Mẹ già đón anh mừng vui, bỡ ngỡ

Mẹ khóc, mẹ cười… mái tóc rụng hoa sương

 

Không theo anh về bàn tay năm ngón

Nhưng về theo anh nghìn chiến công

Về theo anh: sông vẫn đầy mấy ngọn

Mùa vui chim ca, cá trắng, cam hồng…

 

Anh nhìn núi Ngũ Hành năm cụm:

Màu núi thêm xanh

Mất bàn tay, còn quê hương thắm thiết

Mỗi ngón tay dâng một ngụm Ngũ Hành

 

Niềm vui hiện tại

Bếp ấm ân tình

Anh chép sử thi, viết thư cho người yêu bằng tay trái

Đời vẫn xanh và núi vẫn xanh.

 

CẢM TÁC NGŨ HÀNH SƠN

Thái Duy Thanh (Hội An) (Thượng tọa Thích Hương Sơn – Thích Trí Hữu  – dịch)

Hay là ông Lý Khổng Lồ xây

Mới có non non nước nước này

Ngó lại ngó qua năm ngọn núi

Tu lên tu xuống mấy ông thầy

Lên đài Vọng Hải trông xa tít

Vào động Huyền Không ngó trống quầy

Lếu láo ngâm đưa đôi chén rượu

Cõi trần âu cũng có Tiên đây.

 

LÊN CHƠI NGŨ HÀNH

Đông châu Nguyễn Hữu Tiến

Cánh bằng thuận gió đến lam danh,

Thừa hứng lên chơi đỉnh Ngũ Hành

Vọng Hải Đài cao trời thấp rạp

Huyền Không động vắng bụt buồn tênh

Ngấn reo đá mốc tầng cô tháp

Nét chữ bia mờ dấu cựu dinh

Viếng cảnh muốn tìm gương vãn sự

Nào đâu? Bờ cõi của Chiêm Thành

 

 

HOÀI CẢM CHÙA NON NƯỚC

Phan Bội Châu

(Trong “Phan Bội Châu toàn tập” của Chương Thâu. Nxb Thuận Hóa, Huế 1990, tr 455 tập 5)

Say non say nước lại say chùa

Mến nước non cùng mến cố đô

Đuốc tuệ lưng trời tà muội (1) dẹp

Gươm khôn (2) phất gió quỷ ma trừ

Bùi ngùi tháp cổ trên nền cỏ

Cám cảnh bia tàn trước gió mưa

Vịnh cảnh bao lâu xin hỏi Phật

Có chăng Non Nước được như xưa? (3)

 

VIẾNG CẢNH NON NƯỚC

Bà Bang Nhãn Lê Thị Liễu

Cảnh trí nào hơn cảnh trí này

Bồng lai âu cũng hẳn là đây.

Đá chen với lá màu năm sắc

Chùa nực hơi hương khói lộn mây

Ngư phủ gác cần ngơ mặt nước

Tiều phu chống búa dựa lưng cây

Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách

Khen bấy thợ trời khéo đắp xây.

CẢM TÁC NGŨ HÀNH SƠN

Đại đức Thích Như Ý

Mỗi buổi bình minh thỏa ước mong

Tàng Chơn cảnh đẹp bước càng dong

Tri ân sẵn có đôi câu kệ

Ngoài Phật ai hay tỏ nỗi lòng.

THĂM LẠI NGŨ HÀNH SƠN

Tường Linh (Đà Nẵng, Thu 1964)

Trở về thăm Ngũ Hành Sơn

Động Huyền Không nắng chiều phơn phớt vàng

Từng quen ngày chiến chinh tàn(1)

Mà như du khách ngỡ ngàng bước chân

Đường lên đá xếp bao tầng

Dưới kia nào phải cõi trần cách xa?

Phật duyên, phố gọi thành “Đà” (2)

Thương đời ai lạnh độ qua sông “Hàn”

Kinh cầu giữa cuộc nhân gian

Mây mười phương đến rồi tan hướng nào?

Biển trầm luân sóng xôn xao

Dấu than tứ khổ tìm chào Như Lai (1)

Suy tư bên Vọng Hải đài

Mảnh rêu nào ẩn hồn bài cổ thi?

Tiên tri từ dáng vô tri:

Vườn Tâm giữ trọn niên kỳ rộ hoa

Hỡi vòng cung biển bao la

Hỡi chiều vô tận, có ta bên đài

Gió xao như núi thở dài

Gió lồng nhắc tiếng gươm mài hoa cương!

 

NƯỚC NON

Hàn Hải Lê Bá Trinh (1899)

Khen ai khéo tạc đến năm hòn

Đứng vững phô bày cảnh non nước

Cây cỏ xanh rì in dấu đá

Nước non lóng lánh dáng chưa mòn

 

Nước non lóng lánh dáng chưa mòn

Thế giới riêng bầu cón cỏn con

Vang động gió khuya cầm thú vắng

Thiên nhiên lắm vẻ đẹp xinh còn.

 

 

BÊN VÚ ĐÁ NGŨ HÀNH SƠN

Trinh Đường (Tháng 11-2002)

Từng giọt…

Từng giọt trong veo nhỏ xuống

Giọt nào thuộc âm giọt nào thuộc dương

Giọt nào chảy ra từ ruột Hòn Kim

Giọt nào từ Hòn Thủy

Giọt nào rơi như hồi đế chế

Giọt nào từ Dân Chủ Cộng Hòa

Giọt nào nuôi du kích những ngày qua

Để lại chảy dồn thành dòng róc rách

Thành lục diệp điểm tô vùng cẩm thạch

Cho đẹp thêm một Đà Nẵng thân yêu…

Nước vẫn rơi từng giọt đều đều

Như điểm nhịp cho vòng quanh nhật nguyệt

Như cầm trịch cho tháng ngày đi tiếp

Như chỉ huy cho vạn vật tuần hoàn

Từng giọt rơi, rơi, kiên nhẫn nhịp nhàng

Cho âm gặp dương cho trời gặp đất

Giao hòa để trở thành đất nước

Thành linh hồn, thành linh khí núi sông…

Bỗng nhớ ngàn xưa bao chí sĩ anh hùng

Và ngày nay đang sinh sôi nẩy nở

Tôi ngửa ta hứng từng giọt sữa

Nghe khí thiêng sông núi thấm vào hồn…

DẠO CHƠI NON NƯỚC

Lương Cầu

(Trong “Tiếng Thơ” CLB Truyền Thống QN-ĐN, 1993, tr 8-9)

 

Cùng nhau cất bước dạo chơi

Kìa đây Non Nước tưởng nơi Động đào

Bước lần từng cấp lên cao

Men theo đỉnh núi đi vào thiên nhiên.

Đài Vọng giang mở tầm nhìn

Lô nhô nhà cửa mấy miền hiện ra

Dòng sông thấp thoáng xa xa

Lung linh ánh bạc chen hòa màu xanh

Lại lên Vọng Hải nhìn quanh

Biển trời thăm thẳm bập bềnh sóng xao

Cuộc đời mưa nắng dạt dào

Nhân tình thế thái nao nao cõi lòng

Dẫu bao thế sự đục trong

Trần gian tạm gác vào cùng động Tiên

Hang Dơi, hang Gió kề biên

Tam Thanh, Phật tích nối liền Tàng Chơn

Hoa Nghiêm động, Phổ Đà sơn

Ba trăm năm trước chưa sờn nét ghi

Huyền Không động cảnh ly kỳ

Trên thì trời rạng, dưới thì đá xây

Chùa chiền Linh Ứng, Tam Thai…

Bao hang, bao động ngất ngây mùi thiền.

 

Vần thơ gọi chút thiện duyên

Nước non tình cảm gợi miền Hành Sơn.

 

 

VIẾNG CẢNH CHÙA NON NƯỚC

Nguyễn Công Trợ

(Trong “Nội San Tu Tiên” Quảng Nam tập 1 năm 1958)

Xe lăn bánh trên con đường tráng nhựa

Gió ban mai làm khoan khoái tâm hồn

Nhìn đồng hồ chỉ mới tám giờ hơn

Chúng tôi đã đến cảnh chùa Non Nước

Huyền Không động cao trên vài mươi thước

Tường toàn bằng năm sắc cẩm vân

Ánh sáng đây nghe nhè nhẹ lâng lâng

Xanh biêng biếc như trăng rằm mát dịu

Đọc sách xưa mà nay tôi mới hiểu

Ngày non Tiên bằng thế kỷ phàm trần

Tại vì sao Lưu Nguyễn lại bâng khuâng

Rời tiên nữ trở về chi quê cũ?

Trong hang đá tượng hình đôi quả vú

Chuyện ngày xưa vua Minh Mệnh lẳng lơ

Ngày qua đây hậu ý lấy tay rờ

Nên một cái đã tuyệt đường nước chảy

Cái thứ hai qua bao năm còn đấy

Nước từng hồi thánh thót giọt tuôn rơi

Trên bệ cao tượng Phật đúc sáng ngời

Tỏa đức hạnh lòng từ bi bát ngát

Khói hương trầm đâu đây bay man mác

Khiến lòng người quên phiền não chua cay

Bao văn nhân thi sĩ đến nơi này

Khắc vào đá những bài thơ tuyệt bút

Cảnh thiên nhiên thêm con người góp sức

Tạo nơi đây một thế giới kỳ quan

Chùa Đế Thiên Đế Thích ở Nam vang

Kim Tự Tháp oai hùng âu cũng thế !

Vọng Hải Đài trên cao nhìn ra bể

Nước màu xanh điểm trắng cánh buồm xa

Vọng Giang Đài trông non nước bao la

Màu hoa gấm của núi sông muôn thưở…

Cảnh đây đẹp chắc ngày xưa tiên ở

Sống tiêu dao cùng chén rượu vần thơ

Hoặc cùng vui với khúc nhạc bàn cờ…

Đời thanh đạm cùng bạn bè phong nguyệt

Bút thi nhân không làm sao tả xiết

Đường lên trời, đường âm phủ âm u !

Đường có cây có lá cảnh như ru,

Hoa bẽn lẽn tỏa mùi hương thơm ngát

Tôi, người phàm, trước khi về cõi tục

Chi thành thơ vài cảm tưởng đơn sơ

Quảng Nam ta từ trước đến bây giờ

Có cảnh đẹp, có lòng người khẳng khái

Kiếp chúng mình vào đây ta nguyện phải

Đấu tranh luôn để giữ nước non nhà

Quyết bảo tồn những cảnh vật gấm hoa

Không nỡ để cho ngọa nhân dày xéo.

 

VỊNH TAM THAI

Thích Đại Sán

1

Nam Minh một vũng dựng phan mây

Chất ngất từng không khí biển xây

Quét sạch mưa mù lên bửu điện

Tỏa ra ánh sáng chiếu linh đài

Hoa rừng đưa khách đường thông một

Khe núi chia dòng nước rẽ hai

Sơn quỷ đuổi nhau rồng nép bóng

Khói mây nửa động nửa phên gài

2

Sấm vang gió thét sóng ào ào

Đàn vượn bên khe thót nhảy cao

Mắt ngắm biển khơi xanh thẳm thẳm

Chân giày dặm cát trắng phau phau

Cổ – đằng nghìn trượng xuyên hang đá

Bích – nhụ muôn tua rủ động đào

Cát nắng giữa truông ngồi nghỉ mệt

Hơi thu bỗng đã lạnh nao nao.

 

 

NGŨ HÀNH SƠN

Ngô Khắc Ký (Phong Dinh)

Tạo hóa điểm tô nổi mấy tòa

Ngũ Hành phong cảnh rất nguy nga

Có đài Vọng Hải trông ra biển

Có động Huyền Không gió thổi qua

Có khách bốn phương về viếng cảnh

Có chùa hang đá dấu Tiên sa

Ai về Đà Nẵng cho tôi nhắn

Gởi một tình yêu mến nước nhà