Nhà lục giác xưa dưới chân Thủy Sơn (hiện không còn nữa)
Trong ngăn kéo của ký ức tuổi thơ, tôi thường tìm thấy những khoảng sáng về đời mình, ở đó hình ảnh Mẹ tôi hiện lên với đôi mắt màu khói rơm và đôi bàn tay thô ráp, đôi bàn tay cần lao từng nuôi dạy chúng tôi nên người. Giữa ngổn ngang bao kỷ niệm gắn liền với tình yêu của Mẹ, tôi lại nhớ nhất về những ngày Tết – những ngày Tết chạy theo chúng bạn để được đốt pháo, ăn ngon, mặc đẹp, được ngồi với Mẹ chờ đợi giây phút giao thừa bên nồi bánh tét để rồi sáng mai – Mùng một – trong cái gió se lạnh của ngày đầu năm tôi hân hoan dành lấy phần ưu tiên nhất của trẻ con lúc đó là được theo Mẹ lên chùa.
Cậu bé ngày xưa – là tôi – được theo Mẹ lên chùa vào những ngày Tết là niềm sung sướng và thiêng liêng vô cùng. Lúc ấy người ta ít gọi những ngọn núi này là Ngũ Hành Sơn mà gọi chung là chùa Non Nước. Những ngôi chùa nằm trên cao, ẩn mình bên những ngọn núi. Đường vào chân núi không phải tráng nhựa như bây giờ mà là những lối đi trên cát, hai bên là những đám xương rồng và những hàng dương quanh năm phơi mình nắng gió. Ngày đầu năm các nơi thường đổ về đi chùa Non Nước, họ đến bằng phương tiện gì, tôi không nhớ rõ lắm, hình như ở xa thì đi xe đò, xe lam, xe đạp, còn lại phần lớn rủ nhau đi bộ.
Người ta đi chùa rất đông. Họ không hẵn là Phật tử, là đạo hữu ở chùa nào, đi chùa Non Nước trong những ngày Tết với mọi người là thú du xuân tao nhã, tận hưởng niềm vui, thưởng ngoạn cảnh đẹp sau một năm lam lũ làm ăn. Trai gái thì được đến chùa cầu duyên, cầu phúc, người già thì được những phút giây thanh thản, chiêm nghiệm, trẻ em thì được theo Mẹ tung tăng trên những bậc cấp, háo hức lên được đến chùa để thỏa lòng khám phá những điều linh thiêng của núi non, hang động.
Quang cảnh dưới chân núi lúc ấy thật hoang sơ. Hai bên đường vào có vài lều quán lèo tèo, bán vài xâu bánh ú, vài thẩu kẹo đậu, những chai nước xá xị…, ngày Tết có thêm vài dây pháo tẻ, những phong bì lì xì màu đỏ và những ấm nước chè xanh bán cho khách qua đường. Trên những bậc cấp quanh co để đến chùa Tam Thai, Linh Ứng, người lên, kẻ xuống lũ lượt. Những lá cờ ngũ sắc, những tấm phướn nhiều màu reo vui trong gió cùng với những cây Nêu ngày Tết của một vài nhà dân dựng dưới chân núi làm nên hình ảnh mùa xuân một cách chân thực.
Dòng người chơi xuân thanh bình đến lạ, những cậu bé, cô bé xênh xang trong bộ quần áo vải thô và đôi guốc mộc, miệng ngậm thổi những con gà đất nung nhiều màu, gắn bên trong chiếc kèn lá tò te, những chiếc áo bà ba của các thiếu nữ chân quê e ấp bên người yêu rạng ngời trong nắng mới, những cụ già trang nghiêm trong màu áo lam lên chùa lễ Phật…Trên đường cấp, chỗ kia một vài nhóm đánh bài “ông Tiên”, nơi nọ một vài sòng “bầu cua tôm cá”. Người lớn, trẻ con chen chúc, xúm tụm. Những nét hân hoan hoặc thất vọng bất chợt hiện lên trên từng khuôn mặt tùy thuộc vào kết quả của mỗi cuộc chơi. Chơi bài “ông Tiên”, chơi “bầu cua tôm cá” lúc đó không phải là hình thức bài bạc, nặng nề ăn thua mà chỉ là thú tiêu khiển ngày Tết với những đồng tiền cầu may đầu năm. Cảnh quê, Tết xưa chỉ có vậy, mà sao với tôi, đó mới chính là hồn cốt văn hóa của cái Tết quê mình.
Ngày đầu năm, người ta chọn hướng xuất hành mà điểm đến thường là các ngôi chùa – đó là quan niệm về những điều tốt của nhiều người – trong đó có Mẹ tôi. Năm mới, trên các bàn thờ Phật tại chùa Non Nước khói hương nghi ngút, trưng bày đầy ngũ quả và hoa tươi. Bàn thờ ngoài hiên có ông Tiêu Diện lè lưởi thật dài, những tượng thần Hộ Pháp mặc áo giáp sắt, tay cầm thanh đao sáng giới, râu tóc rậm rạp, đôi mắt trợn trừng dữ tợn, lũ trẻ con chúng tôi nhìn vào không đứa nào là không xanh mặt sợ hãi.
Vào động Huyền Không, tôi nắm chắc tay mẹ lần từng bậc cấp bước xuống. Ông Thiện, ông Ác cỡi những con thú lạ mắt ngồi gác hai bên, ngoài động Hoa Nghiêm có tượng Phật đứng, trong động Huyền Không lại có Phật ngồi, trên vòm động có ánh sáng lọt vào, khói hương lan tỏa làm cho không gian bên trong mờ ảo và huyền bí. Trong ký ức tuổi thơ, tôi nhớ mãi Mẹ thường kể cho nghe về sự tích “ông Tơ, bà Nguyệt”, sự tích “nhịn mặc mà ăn, nhịn ăn mà mặc”, những tương truyền hư thực về “vú nước đục, nước trong” ở động Huyền Không, sự tích “Ông Táo về trời”, công việc ghi chép sổ Sinh, sổ Tử của Nam Tào, Bắc Đẩu để tâu lên Ngọc Hoàng ở động Linh Nham, hạt lúa, hạt thóc, hạt đậu, hạt mè ở động Ngũ Cốc đến những chuyện huyền hoặc từ những pho tượng Chàm trong động Tàng Chơn…Tất cả, với trí tưởng tưởng trẻ con của tôi, những hang động ở Ngũ Hành Sơn – Non Nước là một thế giới kỳ bí, một thế giới thần thoại chỉ có trong cổ tích và in đậm dấu ấn đến bây giờ.
Trong khuôn viên chùa, tôi còn nhớ những luống hoa Vạn Thọ ngày Tết với những đám cải xanh được các sư, các chú tiểu vun trồng thẳng tắp. Ấn tượng nhất là hình ảnh các chú tiểu với chóp tóc “ba trái đào” loay hoay quét lá bàng trước sân chùa hay đội những mâm thau đồng chất đầy hoa quả vào chánh điện lễ Phật, các chú hồn nhiên và thánh thiện đến lạ. Các sư, các chú sống đạm bạc với chiếc áo nâu bạc màu đơn sơ, giản dị. Họ lao động sản xuất, tự cung, tự cấp và thanh thản hành đạo như một lẽ tự nhiên.
Ngày Tết, sau buổi cúng Ngọ, tôi được ăn bữa cơm chay đầu năm. Lúc ấy chùa còn thiếu thốn nhiều thứ, bàn ghế được dành cho người lớn, lũ trẻ con chúng tôi được dọn ăn trong những chiếc nong. Cơm chay chùa chỉ có vậy, rau cà, tương dưa và những bát canh bí đỏ. Thế mà đến nay, trong đời mình tôi đã từng nếm qua bao thứ của ngon vật lạ, nhưng bữa cơm chay chùa được dọn trong những chiếc nong của thời thơ ấu lại là bữa cơm ngon nhất đời người.
Dưới khoảng đất rộng, đối diện với cấp lên chùa Tam Thai người dân không ở chen chúc như bây giờ, tại đó có một ngôi nhà lục giác, ngôi nhà không có vách ngăn, lợp ngói âm dương với sáu trụ gỗ lim tròn đứng vững chãi. Chung quanh các bậc cấp là những cặp lân bằng đá ngồi chầu. Dưới nền đá đầy ắp trẻ con đến vui chơi, nô đùa và người đi chùa đến nghỉ chân. Các cụ già và các sư thầy cho rằng, nhà lục giác này là điểm dừng chân của các vua, quan nhà Nguyễn trước khi lên chùa Non Nước. Dưới đường cấp hai bên chùa có hai cái giếng cổ hình vuông, xây bằng gạch đất nung, không sâu lắm, nước rất trong. Có lẽ đây là giếng chùa, lấy nước sinh hoạt cho các nhà sư trên núi, cho người dân chung quanh và cho cả khách đến tham quan, viếng cảnh.
Nhà lục giác và hai giếng cổ một thời gắn liền với tổng thể kiến trúc chùa Non Nước – Ngũ Hành Sơn nay không còn nữa. Rất tiếc, thời gian, chiến tranh và sự vô tình của con người đã đánh mất đi nhiều thứ, trong đó có những dấu tích văn hóa xưa.
Trong xu thế phát triển chung hiện nay, chùa Non Nước – danh thắng Ngũ Hành Sơn đã thành là điểm đến du lịch của Đà Nẵng, được đầu tư, xây dựng nhiều công trình, hạng mục, cơ sở chùa chiền được trùng tu, tôn tạo khang trang, bề thế, đời sống người dân dưới các chân núi đã được nâng lên, du khách các nơi đến tham quan mỗi ngày mỗi đông hơn. Thời gian, vật đổi sao dời, những ngọn núi, những ngôi chùa vẫn còn đó, nhưng sắc màu, hương vị của Tết xưa – thời tôi theo Mẹ lên chùa chỉ còn trong ký ức.
Mẹ tôi không còn nữa, những mùa xuân cứ thế trôi qua… Trong cuộc mưu sinh lận đận của mình – hơn nửa đời người – tôi vẫn loay hoay dưới những ngọn núi chùa. Hình bóng Mẹ, hình bóng những ngọn núi, với tôi đã trở thành hình bóng của quê hương./.
Những ngày cuối năm 2012.
Phan Bân – BQL khu DLTC Ngũ Hành Sơn