Trong nhịp sống hiện đại hôm nay…
Mặc dù tiêu chí cụ thể để khẳng định như thế nào là một thành phố giàu bản sắc vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng có thể hiểu một cách đơn giản: một thành phố bản sắc đồng nghĩa với việc thành phố đó còn lưu lại trong kí ức mỗi người những hình ảnh rất đặc trưng để có thể kể lại hay nhắc đến hay níu kéo để quay về. Cái lưu lại ấy càng rõ nét, càng không lẫn vào đâu, càng bền chặt qua thời gian thì thành phố đó càng đậm đà về bản sắc là điều tất yếu. Như những biểu tượng sống động của lịch sử, mỗi thành phố là một phần, mảng không thể thiếu trong dòng chảy kí ức dân tộc. Dòng kí ức đó có quãng buồn, lúc vui, có vinh quang và khổ đau kể lại chặng đường gian loa, anh dũng mà dân tộc đi qua. Ký ức ấy cũng được kể sinh động bởi những di sản phi vật thể và di sản vật thể hiện hữu trực quan, những hình ảnh đã trở nên thân thuộc như máu thịt và ám ảnh bởi lớp lớp hoài niệm. Mỗi viên đá xưa, mỗi bờ thành cũ, mỗi dáng nét kiến trúc cổ nhân tạo tác, mỗi gốc cây cổ thụ hay chỉ là rặng cỏ lau già ven con sông lặng lẽ trôi qua đều ẩn chứa trong mình những dấu ấn của năm tháng đi qua.
Việt Nam có quá trình hình thành lâu đời, lịch sử trải qua nhiều biến động và cùng với quá trình đó, đô thị ở khắp mọi vùng miền cũng không ngừng hình thành, phát triển và khởi sắc. Bắt đầu từ phố chợ nơi bến sông, góc núi; từ thị trấn, thị tứ hình thành sơ khai rồi bùng dần lên thành các đô thị. Văn minh “ kinh kì”, “kẻ chợ” cũng theo đó ra đời. Chúng ta có một kinh đô nghìn năm Thăng Long – Hà Nội và một cố đô Huế thâm nghiêm, cổ kính. Chúng ta có một thành phố Hồ Chí Minh hiện đại, tạo tiền đề để trở thành “cổ máy động lực” của các tỉnh phí Nam. Một thành phố cảng Hải Phòng năng động và một Đà Nẵng với thương hiệu “thành phố đáng sống”. Bên cạnh đó còn có Hội An đa sắc, Đà Lạt với hệ thống kiến trúc Châu Âu sang trọng giữa thiên nhiên như “ tiểu Paris”, Sapa huyền diệu trong mây và Cần Thơ in dáng nét của một thời cha ông mở cõi. Từ sau mốc son được công nhận là đô thị loại 1 cấp quốc gia vào năm 2003 đến nay, thành phố Đà Nẵng chứng kiến sự đổi thay đáng thán phục, sự thay da đổi thịt đang diễn ra hằng ngày. Nếu như trước đây Đà Nẵng chỉ là đô thị cấp tỉnh với những công trình thấp tầng len lỏi ven sông thì nay đã mang hình hài của một đô thị hiện đại vươn mình ôm trọn một dải bờ biển Đông. Sánh vai cùng thành phố biển là hình ảnh một Ngũ Hành Sơn thời đại mới, văn minh…với những công trình xây dựng hiện đại song hành với những xóm làng truyền thống, bản làng dân tộc cùng hòa quyện trong màu xanh của nước, của trời và của cỏ cây cũng chính là một đặc trưng khó tìm thấy ở các đô thị khác hiện nay – hình thái không gian bao bọc bởi bóng dáng của núi cao, đồi thấp, của sông dài và bãi cát trắng. Thật ra, thay đổi không hẳn là chuyện mai một đáng sợ. Thuở sơ khai có vẻ đẹp của sự trầm tĩnh, của nét hoang sơ tạo tác; đô thị hóa lại mang sắc thái nhộn nhịp, là bức tranh đời tô phối vô vàn gam màu lạ mắt, là chiếc áo mới để tôn tầm sắc vóc của những hình hài xưa cổ.
Một Ngũ Hành Sơn “xanh ngát” bên ngói đỏ tường cao
Nhìn lại những giá trị vàng son còn vang danh muôn thuở…
Giá trị đầu tiên mà tác giả đề cập đến là cảnh quan bởi lẽ làm nên một thắng tích vượt thời gian, làm nên một Ngũ Hành Sơn in đậm trong trí nhớ những ai đã từng qua chính là “ diện mạo” của núi đá ấy, là khung cảnh đầu tiên được ghi lại trong cái nhìn đầu tiên để rồi gây nhớ gây thương gây lưu luyến dáng dấp của Ngũ Hành – hình hài ở năm tháng hồng hoang, một nét trầm mặc được nhuộm bởi màu thời gian chậm rãi mà đằng đẵng, được gội rửa bằng biết bao thăng trầm, phong ba để rồi hòa mình trong cuộc sống náo nhiệt mà vội vã hôm nay. Có nhiều truyền thuyết về sự ra đời và hình thành cảnh quan quần thể núi Ngũ Hành Sơn, trong đó có niềm tin đầy vẻ kì bí cho rằng các ngọn núi ở Ngũ Hành Sơn có nguồn gốc từ một quả trứng của con rồng thời xưa. Song ngày nay, với tiến bộ của khoa học kỹ thuật càng làm rõ về sự vận động địa chất của vỏ trái đất đã làm xuất hiện các hiện tượng tự nhiên trong đó có sự hình thành nên Ngũ Hành. Theo sử sách ghi lại và những bài viết của nhiều người yêu thích Ngũ Hành Sơn đều cho rằng gần 200 năm trước đây, vua Minh Mạng đã đến và đặt tên cho các ngọn núi theo phương vị Bát quái của Kinh Dịch kết hợp với sự độc đáo bởi màu sắc theo từng hòn núi: Thủy Sơn màu hồng, Mộc Sơn màu trắng, Hoa Sơn màu đỏ, Kim Sơn đá màu thủy mặc và Thổ Sơn màu nâu. Dù từ truyền thuyết hay lịch sử hình thành của tạo hóa thì Ngũ Hành Sơn cũng là một danh thắng kì vĩ, tiềm ẩn nhiều điều huyền ảo của một cõi thiên thai trần gian cần được nghiên cứu, khám phá.
Vị trí tọa lạc luôn là một yếu tố tạo nên sự đặc sắc cũng như nét độc đáo cho giá trị cảnh quan. Đắc địa trong vị trí sẽ xây dựng nên một cảnh quan xứng tầm châu lục, một vị thế vững chắc, là cái nôi của rất nhiều tư liệu quý giá sau này. Hẳn nhiên phải xét trên mọi phương diện và yếu tố khác nhau mới có thể đưa ra nhận định Ngũ Hành Sơn là điểm trung hòa hội tụ âm dương ngũ hành. Đặt trong nhìn nhận về khía cạnh “ sơn thủy” trong tổng thể đất nước hình chữ S cho ta thêm một cảm nhận mới mẻ: phía Bắc đất nước có dãy núi Tam Đảo nổi tiếng, phía Nam ở trong những nơi tận cùng Tổ quốc có ngọn núi Thất Sơn nhiều huyền thoại và miền Trung vị trí trung tâm có quần thể núi Ngũ Hành Sơn. Phải chăng Ngũ Hành Sơn là điểm trung hòa giữa Tam Đảo và Thất Sơn ? Kỳ lạ hơn nơi đây còn có âm dương Ngũ Hành như một thông điệp minh chứng về tính chất hội tụ của cả một vùng lãnh thổ. Dưới góc độ như vậy sẽ không quá lời khi nói Ngũ Hành Sơn không còn là thắng cảnh riêng của thành phố Đà Nẵng, của miền Trung mà còn là vùng đất địa linh vô cùng quan trọng của nước Việt Nam.
Mộc sơn, Kim sơn, Hỏa sơn nhìn từ Thủy sơn
Nhắc đến cảnh trí Non Nước người ta sẽ luôn theo thói quen nhắc đến nhiều thứ lạ lùng như chuông úp khổng lồ, cổng trời, đường xuống Âm Phủ hay hang dơi, động tiên…Hệ thống hang động lắm hình thù chính là điểm nhấn sắc sảo cho bức khảm đá quý mang tên Thủy Sơn. Muốn được ngồi trong lòng chuông khổng lồ thì ghé chân đến Huyền Không Quan, thích ngắm non cao biển rộng thì trèo lên đến Vân Thông, yêu cảm giác làm tiên đánh cờ hãy dời bước sang động Tàng Chơn còn nếu tìm một cảm giác yên bình để ngẫm ngợi, để suy tư dĩ nhiên cổng Tam Thai tự, Linh Ứng tự luôn mở rộng mời đón. Đứng ở núi non Ngũ Hành, từng loại cảm giác ta đều có thể trải nghiệm một cách trọn vẹn nhất thanh – sắc – hương đều đủ cả, riêng biệt – lạ mắt – hấp dẫn. Một trong những yếu tố không kém phần quan trọng trong cấu thành cảnh quan nơi đây chính là hệ sinh thái hiếm có. Với hệ thực vật đa dạng, phong phú đặc biệt hệ thống khá nhiều loại cây di sản quý hiếm nào là cây đa sộp 600 tuổi, ba cây bồ kết nằm lọt trong động Tàng Chơn, hai cây bàng “đực cái” trước cổng chùa Tam Thai, cây thị tốt xanh hằng năm đều ra hoa kết trái…đã bao trùm cả khung cảnh Thủy Sơn một nét cổ kính nghìn năm tuổi, từng chút rêu phong lặng lẽ ẩn mình giữa những ngách nhỏ quanh co mà nắng hiếm khi rọi tới. Giữa mảnh đất đang vươn mình thay đổi nhanh chóng, hình ảnh Ngũ Hành Sơn như một chút dư vị cũ kỹ, xa xưa được chắt lọc còn đọng lại mà người dân nơi đây dẫu có xa quê thì vẫn luôn tự hào khi nhắc về cái tên Non Nước nao nao nỗi nhớ ấy, hay bồi hồi khi nhìn thấy những hình ảnh về Hoa Nghiêm động, về Vọng Hải đài lộng gió đôi khi đơn giản chỉ là một cành phượng vĩ trước Tháp Xá Lợi nở rộ cuối mùa. Vào những ngày chuyển mùa như thế mà thăm thú Thủy Sơn ấy là một trải nghiệm thực sự đặc biệt, đứng nơi động Vân Căn Nguyệt Quật mà cảm nhận từng đợt gió heo may để ngửi mùi từ gió mang hương hoa đọng lại, lắng nghe tiếng bước chân vang lên trên từng ngõ ngách, tiếng bản nhạc không lời lặng lẽ phát ra đâu đây như lời hát yên ả của núi rừng, tiếng xuýt xoa nhè nhẹ mà trầm mặc, lắng nghe nhịp đập trái tim, đi theo tiếng rì rào mời gọi để rồi bất chợt ta nhận ra ta “thương” nơi này quá đỗi tựa như muốn thương chân thành một cô gái thì ta phải yêu tâm hồn của họ vậy. Vẻ xưa cổ của cảnh trí thấp thoáng sau những tòa nhà lung linh hiện đại cuốn hút bất kì ai ngay từ cái nhìn đầu tiên. Giữa nhịp sống xô bồ, nơi những tòa nhà chọc trời chen nhau mọc lên, dường như chẳng có gì có thể xâm phạm và phá đi dáng vẻ cổ xưa đã đóng rễ. Nét cũ kỹ ấy là điều tuyệt diệu giữa cuộc sống này đến độ thành phố có nhộn nhịp hay tập nập, hối hả hay nhốn nháo thì lòng người vẫn cảm thấy bình yên đến lạ.
Giá trị cảnh quan có thể được xem là nền móng cho giá trị lịch sử – văn hóa quý giá ở ngọn Thủy Sơn. Kết quả của các cuộc nghiên cứu đã chỉ rõ Ngũ Hành Sơn là mảnh đất có lịch sử lâu đời. Phải là một vùng đất địa linh, cảnh quan kì bí hội tụ những yếu tố linh thiêng trong con mắt của người tiền nhiệm thì Ngũ Hành Sơn mới trở thành trung tâm cư trú, giao thương và trung tâm tín ngưỡng của người Chăm – cư dân bản địa trong lịch sử. Sau khi thuộc về Đại Việt, nơi đây trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Ngay từ thế kỷ XVII hiện hữu trong từng dòng chữ khắc tạc vào văn bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật trên vách đá động Hoa Nghiêm như một cánh cưa thời gian ngược dòng mở ra nhiều tài liệu, sử liệu quý về danh xưng Ngũ Hành Sơn, danh xưng các làng xã đất Quảng, về ngôn ngữ, văn tự, quan hệ Việt – Hoa, quan hệ Việt – Nhật, sử liệu Phật giáo. Và vì chính là vùng đất cư trú của nhiều cư dân nên Non Nươc mang trong mình một giá trị văn hóa đa dạng, phong phú, đậm sắc thái tín ngưỡng của đời sống tinh thần. Hệ thống di tích dày đặc trong Ngũ Hành Sơn bao gồm chùa, am, tháp, miếu thờ, hàng trăm di vật, cổ vật quý hiếm chứa đựng đức tin của người Việt, người Hoa và cả người Chăm bản địa như: Phật giáo, Đạo giáo, đạo Mẫu, Bà La Môn giáo phản ánh nguyên vẹn chân dung của diễn trình giao lưu, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa Việt trên dải đất miền Trung đầy nắng gió cũng như thái độ ứng xử hòa hiếu mang đậm chất nhân văn của tổ tiên chúng ta trong quá trình Nam tiến. Vì vậy, sự bài trí cảnh vật mà thiên nhiên đã ban tặng cho Ngũ Hành nói chung và ngọn Thủy Sơn nói riêng đã trở thành cái cốt lõi tạo nên bề dày trong lịch sử và đặc sắc trong văn hóa gắn bó chặt chẽ, xuyên suốt trong những mốc son của dân tộc.
Lưỡng long chầu nguyệt trong kiến trúc Tam Thai tự
Thắng tích Ngũ Hành Sơn nức tiếng gần xa bởi cảnh sắc thiên nhiên kì thú, một làng nghề “ nhất nghệ tinh nhất thân vinh” hơn 400 năm tuổi và một lễ hội tín ngưỡng dân tộc đậm đà màu sắc cổ truyền quê hương. Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước với tư cách là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ghi một dấu ấn đặc trưng riêng cho Ngũ Hành bằng những “ nét vẽ” điêu luyện trên từng khối đá mang hơi thở của quê hương xứ sở. Dù hôm nay làng nghề ấy đã tập trung thành khu chế tác riêng nhưng trên con đường Huyền Trân Công Chúa quen thuộc, len lỏi trong nhiều con hẻm nhỏ đâu đâu cũng nghe thấy những tiếng cưa, tiếng cắt, tiếng đục đẽo vang lên trong một không gian sôi động của làng nghề như âm thanh quen thuộc, như thói quen hằng ngày dẫu cuộc sống có ngày một hiện đại hơn cũng không hề lạc điệu. Bên cạnh nghề thủ công truyền thống thì lễ hội Quán Thế Âm cũng là bệ phóng đưa hình ảnh thành phố Đà Nẵng nói chung và Ngũ Hành Sơn nói riêng đến với người dân cả nước cũng như bạn bè quốc tế. Là một trong 15 lễ hội lớn của cả nước, mang đậm nét văn hóa truyền thống, lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện quốc thái dân an, cho mưa thuận gió hòa. Giữa tiết trời của mùa xuân, lòng người phơi phới rủ nhau đi hội, hành hương về cội nguồn…Dù phải nhích từng bước trên con đường Sư Vạn Hạnh trong cái nắng nhưng sự háo hức được đến chiêm bái Phật Quan Âm đã xoa dịu nỗi khó chịu của mọi người. Có lẽ niềm vui trẩy hội và sự tôn kính đã “ hóa giải” tất cả những gì chưa thực sự hài lòng. Cứ đến ngày 19.2 âm lịch, lễ hội lại được tổ chức với tầm vóc , quy mô ngày càng lớn hơn về cả nội dung và hình thức thu hút đông đảo thiện nam tín nữ và du khách gần xa về trẩy hội khơi dậy lòng tự hào dân tộc, khơi dậy cả một cái đẹp xưa. Khẳng định một lần nữa danh thắng Ngũ Hành Sơn ấy chứa đựng trong mình một kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đồ sộ với nhiều giá trị đặc biệt, nội dung đa dạng, hình thức độc đáo và tính duy nhất không thể thay thế gồm các công trình, biểu tượng tôn giáo tín ngưỡng của người Việt, người Hoa và cả người Chăm bản địa; các hoành phi, liễn đối, bia kí, cổ vật khắc chữ ngự ban của vua chúa nhà Nguyễn; các di chỉ khảo cổ học; các lễ hội, tập tục và nghề thủ công truyền thống…
Không khí sôi động tại Lễ hội Quán Thế Âm
Hòa nhập mà không hòa tan!
Theo ý kiến của TS.KTS Lê Trọng Bình, Viện nghiên cứu phát triển du lịch thuộc Tổng cục du lịch về việc sử dụng di sản để phát triển du lịch “ Hệ thống di sản là cơ sở hình thành và phát triển các sản phẩm du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái và du lịch văn hóa góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm du lịch của khu vực Châu Á, thu hút du khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng, đem lại nguồn thu lớn cho nền kinh tế quốc dân”. Trên thế giới, du lịch văn hóa đã từ lâu là trường phái hay dòng sản phẩm du lịch cơ bản. Đặc biệt đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ có chiều sâu văn hóa đo bằng hệ thống di sản đậm đặc như nước ta thì du lịch di sản trở thành một trong những thế mạnh nổi trội. Ngày nay, du lịch di sản hướng thu hút du khách tìm đến những giá trị về nguồn, tương tác, trải nghiệm để thẩm thấu những giá trị di sản văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc, các tộc người. Có thể khẳng định, du lịch đã thúc đẩy việc bảo vệ kho tàng văn hóa của quốc gia. Chính nhu cầu tham quan, tìm hiểu của du khách đã thôi thúc chính quyền và người dân biết quý trọng, tự hào, quan tâm, chăm lo, gìn giữ, bảo tồn, phục dựng và làm sáng tỏ, phát huy những giá trị vốn quý của di sản văn hóa.
Di tích lịch sử, văn hóa hẳn nhiên đến từ quá khứ nhưng không đơn thuần chỉ là quá khứ mà để quá khứ luôn sống động thì phải mang hơi thở của thời đại. Chính vì thế, thực tế mà nói di sản rất cần du lịch, có du lịch thì di tích, di sản mới sinh động và có điều kiện tôn tạo lại. Bảo tồn di tích và phát triển kinh tế chính là hai mặt của sự phát triển bền vững. Chúng ta dễ nhận ra một thực tế rằng sự cân bằng cần thiết cho sự phát triển bền vững đó là sự cân bằng giữa quá khứ và hiện tại, giữa yếu tố nhân tạo và tự nhiên, giữa truyền thống và hiện đại, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo tồn văn hóa, giữa những con đường to rộng và sự chống chếnh của kiến trúc đô thị, giữa khát vọng vươn tới tương lai và sự nhìn lại quá khứ. Qúa trình tái thiết đô thị đã đánh mất quá nhiều thứ để nhớ và lưu vào ký ức, để khi ngoái nhìn lại chúng ta thấy hối tiếc. Là sự hối tiếc khi đánh mất đi các công trình kiến trúc được xây dựng từ thời Pháp thuộc, là sự tiếc nuối khi nhiều công trình với phong cách kiến trúc độc đáo trên phố Bạch Đằng, Trần Phú, Lê Lợi…bị phá bỏ hoặc thay đổi công năng và hẳn không ai trong chúng ta quên được hình ảnh khi ngọn lửa bùng lên thiêu cháy hoàn toàn tháp chuông và mái nhà thờ Đức Bà Paris, tâm hồn người dân Pháp như bị thiêu đốt. Trước sự mất mát không thể lấy lại, người ta nhận ra Notre – Dame de Paris không chỉ là một tòa thánh đường, đó là một phần kí ức của người Pháp. Vượt ra khỏi các hàng rào ngôn ngữ, đó còn là biểu tượng tuyệt vời trong kho tàng di sản văn hóa nhân loại. Ám ảnh với những trang văn viết từ 188 năm trước của đại văn hào V.Hugo, cả thế giới thảng thốt xót xa khi nhìn ngọn lửa cướp đi vĩnh viễn nơi chốn mà người kéo chuông tật nguyền Quasimodo đã cứu người con gái Di-gan Esmeralda bằng một tình yêu cao thượng, vĩnh cửu. Kiến trúc không chỉ là kiến trúc, đó là lịch sử ký ức, hồn vía, là những giá trị nhân văn bất hủ đã được trao truyền dù phải vượt qua bao thăng trầm, biến đổi. Trong mỗi đô thị hình thành lâu đời thì những góc phố, con đường, hàng cây cổ thụ, những công trình, cảnh quan, những đền đài, miếu mạo chính là các biểu tượng cất lên tiếng nói của quá khứ. Tiếng nói ấy thẳm sâu giá trị và chuyển tải những thông điệp thiêng liêng đến các thế hệ hậu nhân. Những thành phố càng “ trôi dạt” qua nhiều giai đoạn thăng trầm thì thông điệp gửi tới mai sau càng giàu ý nghĩa. Nếu phai mờ bản sắc và xóa dấu ký ức thì nơi chốn ấy không khác gì “ đô thị đánh mất trí nhớ”.
Hiểu được tầm quan trọng cũng như quá trị vô giá của thắng tích Ngũ Hành Sơn cùng với việc được công nhận là Di tích cấp quốc gia đặc biệt đã trở thành một lá chắn bảo vệ, bảo tồn Ngũ Hành Sơn theo đúng Luật Di sản. Dưới sự tôn tạo, giữ gìn của Ban Quản lý Di tích Danh thắng Ngũ Hành Sơn đến hôm nay Non Nước có nhiều thay đổi như: động Huyền Vi được nâng cấp, bến Ngự nơi vua Minh Mạng cấp thuyền ngày trước ở chân ngọn Kim Sơn được phục chế, các bia ma nhai được quan tâm phục dựng, vườn Lộc Uyển trên chùa Linh Ứng được cải tạo, đường lên đỉnh Thượng Thai được khai thông…Trước sự xâm thực của thiên nhiên khó tránh khỏi, sự mai một tất yếu theo thời gian, Ban Quản lý đã nỗ lực hơn nữa để bảo tồn những giá trị hiếm có từ ngàn xưa, gìn giữ những hiện vật văn hóa Champa như: đài thờ phong cách nghệ thuật Đồng Dương ở trước sân chùa Linh Ứng, ở hang Chiêm Thành thuộc động Tàng Chơn, ở động Huyền Không; hai trụ cửa đá sa thạch ở trên đường lên chùa Tam Thai; bệ đá hình vuông mang phong cách Mỹ Sơn ở sân chùa Linh Ứng; tượng linga-yoni ở động Tàng Chơn; tượng nữ thần Po Inư Nagar ở động Huyền Không; gạch Chăm lát nền động Huyền Không…và vô vàn những di vật, hiện vật quý hiếm khác trong quần thể di tích danh thắng Ngũ Hành để không chỉ lưu giữ cội nguồn, phản ánh sôi động một thời hưng thịnh của cha ông mà còn là nơi để du khách thập phương chiêm bái, tham quan, tìm hiểu về văn hóa Việt, về bản sắc Việt đậm đà trong từng di chỉ.
Ngày hôm nay, đón nhận vận hội mới, thành phố tiếp tục hội nhập sâu, chúng ta không thể từ chối những trào lưu kiến trúc đương đại càng không thể đi ngược tiến bộ của công nghệ thời đại 4.0 nhưng những gì đã là bản sắc thì chắc chắn sẽ không thể mờ nhạt dù trong thời đại nào. Và chắc chắn hơn hết, một khi đã có bản sắc riêng, theo thời gian, Ngũ Hành Sơn nói chung cũng như ngọn Thủy Sơn nói riêng sẽ luôn mang hình hài nên thơ của những ngọn núi bên biển, bên sông hài hòa, sâu lắng/.
Nguyễn Thị Bích Ly – Tổ Quảng Bá du lịch