NGŨ HÀNH SƠN TRONG ÁNH NHÌN CỦA THẠCH LIÊM HÒA THƯỢNG

        Dẫn lời của Dũng Giang Cừu Triệu Ngao đề tại Đoan Châu lữ thứ vào năm Khang Hy Kỷ Mão mạnh xuân (1699): “ Từ xưa các bậc danh nhơn, trong lúc ngao du sơn thủy, thường hay vịnh cảnh đề thơ; hoặc bằng tuyệt cú, hoặc bằng trường thiên, tuy thể chế khác nhau, đều cốt để hình dung cái tốt đẹp của cảnh vật. Tử Hậu qua chơi Liễu Châu, không làm thơ nhưng có làm kỷ sự; Thiều Lăng đi vào Ba Thục, không làm kỷ sự nhưng lại có làm thơ; hoặc ký vào thơ, đều là những bài tả chân tuyệt diệu”. Ngũ Hành Sơn là danh sơn của xứ Quảng, được đề cập, phản ánh trong nhiều thư tịch cổ Việt Nam, từ sử ký, địa chí…do nhà nước quân chủ biên soạn, đến hồi ký, du ký, thơ văn…do tác gia nhiều đời trư tác, và được ghi nhận trong nhiều tài liệu về lịch sử Phật giáo Đàng Trong, mà đáng đề cập có thể nhắc đến những tập du ký, hồi ký, tranh vẽ của các tác giả nước ngoài từng du hành đến đây vào các thế kỷ XVIII-XIX như: Ba tước Macartney, John Barrow, William Alexander, Thomas Bowyear, James Bean, Piere Loti, Thuyền trưởng Rey, Jean-Baptiste Chaigneau…và đặc biệt là Hải ngoại kỷ sự của Thạch Liêm hòa thượng vô cùng nổi tiếng “ chứa đựng rất nhiều lời lẽ kinh bang tế thế; sơn xuyên hình thắng, phong thổ tập tục, đều ghi chép tỉ mỉ từng việc, khí trùm biển cả, bút lay non cao…”.

Thiền sư Thích Đại Sán

          Thích Đại Sán (1633-1705), tự là Thạch Ông, đạo hiệu là Thạch Liêm, thường gọi là Thạch Đầu Đà, nguyên trú trì chùa Trường Thọ ở phía Tây thành Quảng Châu ( tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc). Thiền Sư Thích Đại Sán được đánh giá là một trong những vị sư nổi tiếng không chỉ về Phật giáo mà còn nổi tiếng cả về thi học thời kỳ cuối Minh đầu Thanh của Trung Quốc. Tiếng tăm của ông không chỉ nổi ở vùng Lưỡng Quảng và kinh thành Trung Quốc mà còn đến tận Việt Nam và được chúa Nguyễn thỉnh mời đến Quảng Nam. Năm Khang Hy thứ 33 (1694), Thích Đại Sán nhận lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) bấy giờ đang trị vì Đàng Trong, vượt biển từ Quảng Đông sang Thuận Hóa để giúp chúa Nguyễn xiển dương Phật giáo và hoạt động Phật sự ở Thuận Hóa và vùng Thuận Quảng nói chung. Khi sang Quảng Nam, Thiền sư được chúa Nguyễn Phúc Chu nhất mực trọng dụng. Đáp lại tấm thịnh tình đó, Thiền sư Đại Sán cũng có những đóng góp không nhỏ trong việc thay đổi tình hình Phật giáo Đàng Trong cũng như tư tưởng chính trị của chúa Nguyễn Phúc Chu. Trong tác phẩm của chính mình, ông có viết về Ngũ Hành Sơn, khi thuyền của ông từ Thuận Hóa vào Hội An để chuẩn bị cố quốc. Núi Tam Thai trong Hải ngoại kỷ sự là tên gọi được Thích Đại Sán chỉ cho hòn Thủy Sơn – một trong sáu hòn núi đá hoa cương tạo nên quần thể Ngũ Hành Sơn. Bằng lối văn tự sự, Thích Đại Sán ghi lại hành trình viếng thăm núi Tam Thai khá chi tiết cùng những nhận xét thú vị về cảnh quan Ngũ Hành Sơn đương thời, về ngôi chùa tàng ẩn trong núi và sinh hoạt của tăng chúng trong chùa.

          Hải ngoại kỷ sự đã thuật rõ, hòa thượng Thạch Liêm đặt tên cho một ngọn núi ở Thủy Sơn là Hải Dũng phong và một hang động là Hoa Nghiêm động. Ông cũng đinh ninh rằng “ cuộc du lãng hôm nay, không có thơ không được, ít ra cũng phải vì non động ghi danh. Biết đâu nghìn năm sau, nơi rừng bụi hoang vu, chẳng trở nên phồn hoa đô ấp; ve than dế khóc, chẳng đổi ra xướng hát đờn ca; thì danh của núi này, từ ta gây dựng, phải có một vài bài thơ để phẩm đề”. Chính lẽ ấy, qua canh hai, đến bờ Hội An, vẫn nằm lại trong thuyền, ông đã làm một bài trường ca “ Chơi núi Tam Thai” và hai bài thơ thất ngôn miêu tả cảnh trí hùng vĩ và nên thơ của núi Tam Thai và chùa chiền tọa lạc nơi ấy. Người ta vẫn thường nói khi ngôn ngữ không đủ lời ngợi ca thì âm nhạc lên tiếng, khi âm nhạc không diễn tả hết cảm xúc dâng trào thì phải nhờ đến sự tĩnh lặng của hội họa. Thế nhưng dưới ngòi bút của Thạch Đầu Đà từng câu chữ, từng ý tứ đều không khác gì bản giao hưởng ngợi ca núi rừng, tạc nên một bức tranh thiên nhiên sinh động bất tĩnh, là cả một sự hòa quyện tuyệt vời giữa thơ, nhạc và họa:

          Một đêm suốt sáng băng miền,

                   Non cao thoát thấy nhãn tiền ba ngôi.

         Làn sóng biển đập xoi chân núi,

Đá lỡ loang cây cối tơi bời.

          Mở đầu bài trường ca cũng là cái nhìn đầu tiên của Thích Đại Sán về Ngũ Hành Sơn – một cái nhìn như “ không có gì” ngoài đá núi và cỏ cây “ nghìn đồi quanh co đều bằng đất, chỉ có gò núi đá Tam Thai đứng cao chất ngất…nhìn xa, hình núi suôn sẻ, có nhiều cây lớn hai ba vòng ôm, mọc từ trong hốc đá…có chỗ sâu lõm vào thành hang, lại có chỗ đứng, dựng như bức vách, nhưng chẳng thấy chùa ở đâu, mới trông qua thấy thô lỗ tưởng như chẳng có gì kì thú vậy”. Những ấn tượng ban đầu của núi Tam Thai trong mắt Thiền sư há chăng lại vô cùng đơn sơ, không khác gì ở trong một khu rừng như bao khu rừng ở quê hương ông – không một chút đặc sắc, không gợn một cảnh đẹp mỹ miều nào “…trước núi có một cái gò, trước gò trèo lên chừng trăm bước có một ngôi chùa cổ, sãi trông chùa đánh chuông trống, mặc áo tràng ra rước vào lễ Phật. Mời ngồi, thết trà, cung đốn tươm tất”. Nhà chùa muốn dọn chay, thiền sư lại muốn dùng bữa sau khi lên núi về. Và thế rồi, những điều kỳ diệu ở Ngũ Hành Sơn mới bắt đầu phô diễn, lột trần độc đáo trước mắt Thích Đại Sán:

                                               Mờ mờ vách đá rêu phong,

          Vẽ xanh phỉ thúy, vẽ hồng đơn sa.

 Đi lần đến sơn pha hai đỉnh,

              Ngửa mặt nhìn thấy ánh thiều quang.

 Vạch cây luồn đá trông sang,

                  Cây chằng chịt mọc, đá ngang ngổn nằm.

    Núi Thái Họa nghìn tầm cao vút,

       Cửa Hàm Quan trét một viên bùn.

Có phong cảnh nhìn xa lại cảm thấy đẹp mắt, có phong cảnh phải đến gần mới yêu thích, lại có phong cảnh sau khi rời đi mới có thể phát hiện cái đẹp của nó. Ngũ Hành Sơn là “ vẻ đẹp” càng đi sâu nhìn kĩ càng phấn khích ngỡ ngàng. Dõi theo ngòi bút của Thạch Liêm hòa thượng, từ trông chừng không có gì lí thú đến kỳ thú biết mấy. Cái đẹp đầu tiên là vách đá – vách đá sáng, mờ, nứt nẻ từng đường, từng lớp, xem như lượn sóng; mặt trời rọi vào rêu đá nơi đỏ nơi đen, màu biếc lẫn màu hồng; có những viên đá trắng như ghế ngồi, trên đỉnh núi thường có nước rỉ xuống. Do vậy mà theo Thiền sư “ nghỉ mát ở dưới như ngồi trong đường hầm. Gió mát lạnh lùng, khiến người gối đá nằm chơi thiu thiu buồn ngủ”.Như lời kể của Thích Đại Sán, quốc tự Tam Thai lúc bấy giờ là một ngôi đền cất tựa vách đá, không cao lắm nhưng kiên cố có thể chịu đựng lâu dài, tọa lạc trên một vùng rộng rãi bằng phẳng, cây cối um tùm. Vị hòa thượng đã ví hang núi ở Ngũ Hành Sơn như Hào Hàm ( tên gọi tắt của Hào Sơn và Hàm Cốc Quan – hai hang núi ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) nhìn bên ngoài tưởng chừng chỉ cần ném một hòn đất là có thể bít kín nhưng khi mở ra và leo lên thì bên ngoài là cả một vùng trời thoáng rộng diệu kỳ thay.

Xuất hiện trong ý thơ của Thạch Đầu Đà không chỉ có chùa Tam Thai, với cách mô tả của ông còn dễ dàng nhận ra Huyền Không Quan thuở ban sơ ấy, đẹp một màu hoang dã núi rừng, không vướng chút bụi trần, tuyệt nhiên thanh tịnh và kì bí, vẹn nguyên hình hài của tạo hóa nhào nặn:

              Có một động thiên thành mát mẻ,

                Trong nắng hè nhường thể ba đông.

       Cứ theo đường tắt cong cong,

              Đi ra sau điện quanh vòng đến nơi.

    Gần đến cửa có hai vách đá,

          Bước ngập ngừng trong dạ âu lo.

Mới vô trông thấy tối mò,

                   Nhường như sơn quỷ theo dò dấu chân.

                                    Gai góc vướng áo quần lôi lại,

      Lá bàng khô trở ngại gót chân.

    Lom khom chân bước tới gần,

       Tầng trên như có hé vầng kim ô.

Ai khéo trổ tròn vo một lỗ,

              Sáng như gương trên đó trống không.

           Trần hang dòm xuống thiên không,

                Nhụ toan lóng lánh như lồng đèn treo.

     Đá lớn nhỏ cheo leo thẳng cửa,

      Lớn tày đình, nhỏ tựa trừng ga.

  Thiên công khéo tạo một tòa,

              Một tòa không động văn hoa rỡ ràng.

Nơi rộng hẹp có hàng có lối,

      Thấp lại cao, dứt nối khôn cùng.

  Cửa hang một góc mây sông,

          Dài ba trăm thước như rồng có vây.

    Ngồi sờ mó liền tay chẳng ngán,

Ngồi đã lâu bỗng ớn lạnh lùng.

          Con đường dẫn lối từ chùa Tam Thai đến động Huyền Không được Thiền Sư Thích Đại Sán thuật lại vô cùng rõ ràng, chẳng khác gì tấm bản đồ lưu lại cho hậu thế, ghi dấu một chốn dừng chân “ núi lạ đá xinh”. “ Cửa động tối mò, bước vào từng bậc thềm thấy sáng dần. Vào hết bậc thềm thấy mặt trời sáng trưng, từ kẽ hở trên động rọi xuống, động tròn lại bằng phẳng…, phía trên có mấy khe hở cành lá giao bóng trập trùng…”. Qủa thật kết cấu Huyền Không Quan vào thời điểm ấy không khác bấy giờ là bao! Để vào được động Huyền Không phải qua động Hoa Nghiêm; cửa Hoa Nghiêm động vốn dĩ rất tối nhưng đi sâu vào bên trong để đến với Huyền Không thì lại thấy cả một khoảng trời sáng xanh mùa hạ. Thời điểm Thạch Liêm đến vùng đất này, ngọn gió tây nam đã thổi, thế nhưng trong động lại mát mẻ chẳng cần quạt, ngày dài tháng sáu tựa mùa đông, chẳng màng đến thời tiết của đất trời. Lôi cuốn vị Thiền sư ắt hẳn không đơn giản chỉ là không khí dễ chịu trên non cao mà còn là “ treo nồi chõ” “ rủ đèn lồng” trong một động lộ thiên như thế này. “ Treo nồi chõ” tức chỉ loại thạch nhũ dựng đứng, có dáng như cái nồi, cái chõ gọi là vú đá; thuật ngữ địa chất gọi là thạch nhũ trên. “ Rủ đèn lồng” tức chỉ loại thạch nhũ treo rủ xuống như lồng đèn, gọi là cột đá; thuật ngữ địa chất gọi là thạch nhũ dưới. Ở thời điểm ấy, Huyền Không Quan dưới cái nhìn của Thiền sư Thích Đại Sán là một động thiên tạo kì lạ, cửa động tối om nhưng trong động lại “ tỏ vầng kim ô”, một cái ngẩng đầu thấy cả trời mây, “ có một dây song già từ trên hẻm đá thòng xuống tận đất, hình tròn bằng miệng chén, dài cả trăm thước, thẳng như dây cung…., khỉ vượn leo bò ở trên cúi xuống dòm người nạt đuổi không chạy…, dọc vách dây leo quàng áo khách nhưng lại sạch sẽ đẹp hơn hết”. Vốn dĩ vẫn là chốn non cao linh thiêng, là nơi ít dấu chân người lui tới nên không tránh khỏi việc Thích Đại Sán “ uống trà chưa xong, nghe ớn lạnh liền tìm của động đi ra”.

            Trong kỷ sự của Thạch Đầu Đà còn nhắc đến Cổng trời và động Vân Thông tại Ngũ Hành Sơn. Vào thời điểm ấy, Cổng trời được ông mô tả là “ đến sườn núi có hai viên đá dựng đứng như trụ cửa. Đứng trong cửa trông ra mênh mông biển cả, gió lùa vào quá mạnh, đứng giữa của muốn xỉu cả người”. Còn động Vân Thông dưới ngòi bút của ông lại là “ một động rất cao, có một của đá, nhìn vào trong mờ mờ có ánh sáng; đi vào trong, mái động có khe ngách mở sáng như của sổ vậy”. Suy cho cùng, dù là vào những năm tháng xa xưa ấy hay cho đến tận bây giờ, những động, những hang, chùa chiền,…vẫn còn đó nét đẹp hoài cổ, vẫn mang trong mình hình hài tạo hóa sinh ra. Lẽ dĩ nhiên lúc Thích Đại Sán dừng chân tại ngọn Thủy Sơn và ngày hôm nay có thể một vài thứ đã không còn nguyên vẹn đã mai một như Vĩnh Hòa tự ( tên thật là Vinh Hòa tự) – một ngôi chùa do chúa Nguyễn Phúc Tần cho xấy dựng trên núi Quy Sơn (Linh Thái) vào năm Cảnh Trị thứ 4 (1666) mà Thích Đại Sán đã nhìn thấy khi ngồi trên thuyền, trải qua chiến tranh binh lửa, chùa Vinh Hòa đã hoàn toàn đổ nát; đến năm Minh Mạng thứ 17 (Bính Thân – 1836), vua ra chỉ dụ cho trùng tu lại chùa và đổi tên thành chùa Trấn Hải. Chùa Trấn Hải này cũng đã biến mất, tuy nhiên nền móng chùa hiện vẫn còn được tìm thấy khá nguyên vẹn trên đỉnh ngọn núi này, ngủ yên trong dặm dài lịch sử:

         Đưa mắt ngó núi đồi chớm chở,

Khắp nơi rực rỡ linh lung.

          Lên cao nhìn xuống quanh vùng,

                     Một dòng suối ngọt đùng đùng chảy tuôn.

          Một tảng đá cũng nguồn hứng thú,

       Một cành cây cũng đủ ngâm nga.

Tiếc thay thắng cảnh sinh ra,

               Không may chẳng gặp văn gia phẩm đề.

  Nhiều gai góc bốn bề quái thạch,

     Điểm tô, thêm quê kịch những loài.

Than ôi! Thắng tích nhường này,

         Tiếc thay không có tay người sửa sang.

Tuy khắp nơi đều là “ lối quanh u tịch, phơi phới hoa rơi, chỉ có bầy ong núi vù vù đua nhau cướp nhụy…” nhưng không thể che lấp vẻ linh lung núi rừng chốn non cao, có mây, có suối róc rách, có biển rộng, từng cành cây, phiến đá cũng quá đỗi nên thơ. Thích Đại Sán vốn dĩ đã nhận rõ vẻ đẹp tạo hóa của Ngũ Hành Sơn nên mới buông hai từ “thắng tích” như vậy, ông chỉ tiếc “ vì bố trí thần phật, tướng mạo ác tục, làm giảm giá động rất nhiều”, chỉ tiếc “ một tòa núi đẹp thế này mà chủ nhân không gia công giũa gọt; khiến chỗ nào cũng gai góc dơ dáy, giun dế âu sầu” nếu biết chăm sóc sửa sang thì phiến đá gốc cây đều trở nên hoàn mỹ. Ông cho rằng mỗi một cảnh đẹp sinh ra từ đất trời cũng mang vận may mắn. Ông đã nhắc đến Trung Hoa dù đơn thuần chỉ là một gò đá, một dòng khe, lầu các đình đài chỉ cần “ trải qua cao sĩ, văn nhân đề vịnh bè trở nên danh thắng nghìn xưa”. Càng ngẫm ông lại càng núi tiếc cho ngọn Thủy Sơn tuy “ đá tốt núi xinh cũng chôn vùi trong gai cỏ; may ra chỉ làm nơi ca ngâm cho bọn tiểu mục, nơi ăn nằm cho đàn trâu dê”. Từ cảm giác tiếc nuối, Thạch Liêm lại lo sợ rằng “ rồi một mai chẳng may bị bọn tục tử chú ý, bố trí quê mùa, điểm trang dơ dáy, làm cho thần núi thất kinh, khách qua đường ái ngại thì lại đáng tiếc biết chừng nào”. Sự quan ngại mà Thiền sư canh cánh trong lòng lúc ấy đã không trở thành hiện thực khi “thắng tích” Ngũ Hành Sơn là nơi mà vua Gia Long “ mang ơn” cũng là nơi mà vua Minh Mạng tâm huyết tu bổ trong suốt những năm trị vì của mình.

          Theo nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ, người Chăm phát hiện ra Ngũ Hành Sơn và hệ thống hang động ở đó. Họ đã biến nơi này thành một địa điểm linh thiêng bằng cách xây đắp đền thờ, gọt đẽo đá núi, chạm khắc vào vách hang động hình tượng các vị thần linh của người Chăm, thực hành các nghi thức thờ tự, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng. Có lẽ vậy mà Thích Đại Sán cho rằng “ thần phật tướng mạo ác tục”. Về sau, khi người Việt chiếm vùng đất cũ của người Chăm trong Ngũ Hành Sơn, một mặt họ đã phá hủy những đền thờ của người Chăm, mặt khác họ cho xấy dựng nới đây hệ thống chùa miếu của người Việt và Việt hóa nhiều vị thần linh mà người Chăm đã từng thờ phụng thành những vị thần “ cốt Chàm, bì Việt” để thờ cúng. Điều này cũng góp phần tạo nên một giá trị đặc sắc riêng có thậm chí còn vô vàn những điều kì bí ở Ngũ Hành Sơn mà đến nay chưa hết thu hút nhiều nhà nghiên cứu – văn hóa Champa song tồn với di sản văn hóa và tôn giáo của người Việt.

          Người có công lớn lao trong việc nâng tầm sắc vóc cho chốn Non Nước hữu tình nơi đây chính là vị hoàng đế thứ hai của Hoàng triều Nguyễn nước Đại Nam – Nguyễn Thánh Tổ. Cũng như Thiền sư Thích Đại Sán, qua các chuyến tuần du, vua Minh Mạng đã thấu rõ cảnh sắc non cao linh thiêng, tuyệt đẹp cả di tích và con người nơi đây, nhìn thấy tầm vóc của thắng tích này. Vị vua mà giới sử gia đương đại đã đánh giá là vị vua kiệt xuất nhất của triều Nguyễn đã làm thơ vịnh cảnh, cấp tiền để trùng tu các ngôi chùa trong núi bị hư hại do thời gian và chiến tranh, xây cất thêm chùa mới, tu bổ các hang động, dựng điện Đông Thiên Phước Địa ở gần chùa Tam Thai để làm nơi trú tất mỗi khi vua viếng thăm Ngũ Hành Sơn, đúc chuông, tạc tượng và ban nhiều tặng phẩm quý giá cho các chùa và đền thờ thần linh ở nơi đây, ban nhiều đặc ân cho các tăng sĩ tu hành nơi các chùa tọa lạc ở Ngũ Hành Sơn. Thủy Sơn giai đoạn này đã không con là “ nơi xó tối hang cùng” như lúc Hòa thượng Thạch Liêm ghé chân mà đã trở thành “ địa diểm hành hương của vua chúa, của dân chúng mộ đạo, là địa điểm của các lời thề thốt hơn thua long trọng, cũng như của cá lời cầu xin cho gia đình giàu có vinh hạnh”.

          Song hành cùng bài trường ca “ Chơi núi Tam Thai” là hai bài thất ngôn của Thích Đại Sán miêu tả một lần nữa cảnh trí núi Tam Thai hoang dã, vẹn nguyên thưở sơ khai trong giây phút đầu tiên Thạch Đầu Đà đặt chân đến: đá chen mây, hoa rừng đua sắc, khỉ đông từng bầy, sóng biển bên tai… và một không khí mát mẻ như “ hơi thu” giữa ngày hè:

Bài thứ nhất:

           Nam Minh một vũng dựng phan mây,

        Chất ngất từng không khí biển xây.

   Quét sạch mưa mù lên bửu điện,

Tỏa ra ánh sáng chiếu linh đài.

            Hoa rừng đưa khách đường thông một,

Khe núi chia dòng nước rẽ hai.

     Sơn quỷ đuổi nhau rồng nép bóng,

   Khói mây của động nửa phên gài.

Bài thứ hai:

     Sấm vang gió thét sóng ào ào,

        Đàn vượn bên khe thót nhảy cao.

             Mắt ngắm biển khơi xanh thăm thẳm,

           Chân giày dặm cát trắng phao phao.

             Cổ đằng nghìn trượng xuyên hang đá,

    Bích nhụ muôn tua rủ động đào.

         Cát nóng giữa truông ngồi nghỉ mệt,

Hơi thu bỗng đã lạnh nao nao.

Không chỉ ngợi ca sự hùng vĩ của núi Tam Thai, Thích Đại Sán cũng vô cùng cảm thán sự uy nghiêm, linh thiêng của chùa chiền tọa lạc nơi đây và không khỏi trân trọng, đánh giá cao đời sống tu hành của các vị sư “ phải có tấm lòng sùng kính đối với sự huyền nhiệm cao sâu, cũng như ý tưởng dứt khoát từ bỏ mọi điều trần giới thì mới có thể dấn thân vào cái lam chướng của các hòn núi và vào cái u buồn hoang dại của một sự yên lặng gần như tuyệt đối giữa thế giới loài người”.

          Trải qua những tháng năm lịch sử thăng trầm, danh thắng Ngũ Hành Sơn trong các thế kỷ XVII-XIX đã được miêu tả rất sinh động và chi tiết thông qua Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán. Tác phẩm của Thạch Liêm Hòa thượng không chỉ vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về Ngũ Hành Sơn mà con cho thấy danh sơn này là một vùng đất thiêng của Phật giáo Đàng Trong nơi phát tích nhiều ngôi cổ tự danh tiếng, có ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Đàng Trong nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung, trước khi trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước trong suốt mấy trăm năm qua.

Nguyễn Thị Bích Ly – Tổ Quảng bá du lịch