Người tạc tượng dưới chân Ngũ Hành Sơn
Hơn một lần tôi mê mẩn ngắm quần thể tượng sống động, phi phàm ở chùa Linh Ứng trên núi Sơn Trà. Vẫn thầm hỏi, ai làm nên tuyệt tác ấy? Rồi một cơ duyên chợt đến. Nhờ sự giới thiệu của các cán bộ Ban quản lý khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, tôi gặp được tác giả những pho tượng: Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Việt Minh ở làng đá Non Nước dưới chân Ngũ Hành Sơn.
Dấu ấn nghệ nhân
Gặp rồi mới ngớ người, hóa ra, không chỉ riêng quần thể tượng ở chùa Linh Ứng núi Sơn Trà, mà tôi hầu như đã chiêm ngưỡng quá nhiều tác phẩm của ông đặt ở những nơi linh thiêng, trang trọng nhất, lại biết thêm rằng, danh ông đã vang đến tận bốn phương trời. Phải kể đến một vài quần thể tác phẩm sau đây mà chắc rằng nhiều người biết đến:
– 10 bức phù điêu Thích Ca tại chùa Linh Ứng – Non Nước;
– Tượng bổn sư lộ thiên cao 27m; tượng Quán Thế âm lộ thiên cao 3m, những bức tượng an vị trong chánh điện và 8 bức phù điêu cùng thập bát La hán tại chùa Linh Ứng – Bà Nà;
– Bộ Thập bát La hán tại tu viện Nguyên Thiều – Bình Định;
– Bức phù điêu 9m2 và 4 tượng chiến sỹ giao bưu tại Bảo tàng Bưu điện Đà Nẵng;
– Bức phù điêu 9m2 Bác cùng chúng cháu hành quân tại TP Hồ Chí Minh;
– Tượng Bác Hồ cao 3m, tượng mẹ Việt Nam anh hùng tại nhà tưởng niệm Rạch Chiếc – TPHCM;
Tượng các nhà lãnh đạo Trần Phú, Võ Văn Kiệt…
Ngoài ra, tượng, phù điêu do nghệ nhân Nguyễn Việt Minh chế tác còn có mặt ở những không gian từ San Prancisco, Caliphonia, New York, Atlanta (Hoa Kỳ) và nhiều nơi khác ở Châu Âu, Châu Á, nhiều nhất là ở Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Campuchia… Riêng ở Mỹ, có một khu vườn tượng, người ta đặt ở đó tấm biển “Thank you, Nguyen Viet Minh” (cảm ơn Nguyễn Việt Minh) để bày tỏ niềm hân hoan và ngưỡng mộ đối với người thợ đá bậc thầy của đất Ngũ Hành Sơn.
5 đời chế tác
Bước vào không gian sinh sống của nghệ nhân Nguyễn Việt Minh (P. Hòa Hải, Q. Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng), điều khiến tôi bất ngờ chính là… đồ gỗ! Từ tủ thờ, bàn ghế, vật trang trí… đều bằng gỗ. Tất thảy cầu kỳ, tinh xảo, cho thấy sự chăm chuốt của gia chủ. Nhưng tại sao không phải là đồ đá? Hỏi sao có sự ngược đời này, ông bảo: “Cái nghề đá ni hắn khắc nhau ghê lắm! Là nghề cha truyền con nối, ấy thế mà, cha với con không ai chịu phục ai cả! Đồ cha làm ra con không ưng ý, con làm ra cha không chịu công nhận! Vậy nên tác phẩm làm ra cho thiên hạ dùng, chứ ít khi trưng trong nhà”.
Khắc nhau là vậy, sao nghề cứ truyền được đời này qua đời khác, giờ vang danh thiên hạ? Nghĩ cũng là sự lạ. Phải chăng, chính bởi cái sự khắc nhau lại là cội nguồn của sáng tạo, thúc đẩy mỗi người làm nghề liên tục tìm hướng đi, cách thể hiện mới, tạo nên những tác phẩm độc nhất vô nhị mà khi quan sát tổng thể lại thấy vô vàn phong phú, sinh động?
“Các cụ tổ nhà tôi chủ yếu làm nông. Thời trước, chế tác đá là công việc lúc nông nhàn. Cụ tổ làng đá đến nay thực vẫn chưa rõ là ai, chỉ biết được truyền từ Thanh Hóa vào trong dòng người di cư thời các chúa nhà Nguyễn. Một số tài liệu nói rằng cụ tổ làng nghề là ông Huỳnh Bá Quát, nhưng nay vẫn chưa xác định chính xác được. Có người bảo rằng, khi người Pháp đến Đà Nẵng vào thế kỷ XIX họ đã thấy những người đàn ông An Nam lom khom lọ mọ ở Ngũ Hành Sơn đục đẽo đá rồi. Riêng nhà tôi đã được 5 đời. Tôi vào nghề từ nhỏ, ban đầu phụ giúp cha, sau tự học, tự làm” – nghệ nhân Nguyễn Việt Minh kể.
Pho tượng Bác Hồ
Lịch sử hàng trăm năm của làng đá Non Nước đến nay còn nhiều điều chưa rõ; nhưng chỉ riêng mấy chục năm trong đời nghệ nhân Nguyễn Việt Minh cũng đã khắc họa sinh động cái sự chìm nổi gắn liền với những biến thiên của đất, của người Ngũ Hành Sơn, mà rộng ra nữa là của dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỷ XX.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, vùng Hòa Hải – Ngũ Hành Sơn là căn cứ cách mạng. Chiến tranh loạn lạc, nghề đá mai một đi nhiều. Trai tráng trong vùng phần nhiều đều tham gia kháng chiến. Nghệ nhân Nguyễn Việt Minh cũng nằm trong số đó. Ông là người tham gia cánh quân từ bến Đò Xu đánh vào cơ quan đầu não địch ở Đà Nẵng trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Chẳng may, bị địch bắt, ông bị kết án rồi đày ra nhà lao Phú Quốc, mãi đến khi gần giải phóng mới được trả về.
Nghệ nhân Nguyễn Việt Minh kể: “Hồi ra tù, tôi chỉ còn hai mấy ký. Mắt mờ, chân xiêu, điều trị, nghỉ dưỡng hai năm sau mới lại sức. Vừa lúc giải phóng, tôi ra tham gia chính quyền. Nghề đá lúc bấy giờ gần như tàn lụi. Chỉ khi rảnh rỗi, người làng Non Nước mới đục đẽo dăm ba vật dụng sinh hoạt chứ hiếm khi làm tượng, phù điêu”.
May sao, trong lúc suy vi ấy, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghé thăm làng đá Non Nước. Nghệ nhân Nguyễn Việt Minh nhớ như in sự kiện này. Ông kể: Quãng năm 1976, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghé vào thăm. Thủ tướng hỏi tôi: “Nghề này giờ ra sao?”. “Dạ, bỏ rồi bác ơi!”. Nghe vậy, Thủ tướng không hài lòng, dặn ngay: Giải phóng rồi ta xây dựng đất nước. Dân ta sẽ giàu lên, cần trang trí nhiều hơn, đẹp hơn. Do đó, phải duy trì nghề chế tác đá.
Tiếp đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm nghệ nhân Nguyễn Sang, bấy giờ đang tạc tượng Bác Hồ, nhưng không giống, vì chỉ nhìn ảnh để tạc chứ không có mẫu. Thời gian sau, Thủ tướng gửi vào tặng làng đá một bức tượng Bác Hồ để các nghệ nhân tham khảo. Từ đây, làng đá tạc tượng Bác Hồ bằng đá. Tượng Bác Hồ được tạc bởi những đôi tay tài hoa của làng đá Non Nước trở thành món quà kỷ niệm quý giá để lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo Quân khu 5 tặng địa phương, đơn vị tỉnh bạn. Năm 1977, HTX điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước ra đời, với khoảng 100 xã viên, trong đó có 30 thợ điêu khắc, do ông Nguyễn Việt Minh làm chủ nhiệm.
Nghề đá Non Nước hồi sinh!
Bức ảnh kỷ niệm giữa ông Nguyễn Việt Minh và cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Mở đường cho đá
Những tháng ngày sôi động của làng đá Non Nước sau chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không kéo dài mãi mãi! Cái đói, cái thiếu của thời bao cấp chẳng mấy chốc bao trùm lên cả làng nghề. Thêm vào đó, đá Ngũ Hành Sơn cũng dần cạn kiệt, tỉnh ra lệnh cấm khai thác. Làng nghề một lần nữa lao đao. Những người thợ đá chuyển sang nghề nấu vôi. Năm 1985, HTX đá mỹ nghệ Non Nước giải thể. Chính vào lúc này, nghệ nhân Nguyễn Việt Minh, một lần nữa mở đường cho đá.
Năm 1986, nghệ nhân Nguyễn Việt Minh mở lớp dạy nghề. Đây là điều chưa có tiền lệ. Bởi, truyền thống của làng chỉ có cha truyền con nối, tuyệt đối không truyền cho người ngoài. Nghệ nhân Nguyễn Việt Minh kể: “Khi tôi mở lớp, đứng ngay sân, thậm chí ngoài đường dạy học viên, nhiều người trong làng, nhất là những người có thâm niên, uy tín, tài nghệ… tỏ ra không mấy hài lòng. Đôi khi, còn phải nghe chửi! Thế nhưng tôi vẫn làm. Bởi lẽ, nếu cứ giữ kín nghề thì không thể nào phát triển được”. Lớp đầu có 20 em, trong số này có Nguyễn Hùng, là một trong những doanh nghiệp chế tác, kinh doanh đá mỹ nghệ lớn nhất Ngũ Hành Sơn.
Nghệ nhân Nguyễn Việt Minh thăm cơ sở chế tác đá của học trò cũ
Rồi thời cơ cũng đến. Đầu những năm 90, đất nước mở cửa, lúc này, những người từ Đài Loan, Hồng Kông, Lào, Campuchia… tìm đến Ngũ Hành Sơn. Họ đem theo mẫu đặt hàng để chở về nước. Cơ sở dạy nghề của nghệ nhân Nguyễn Việt Minh trở nên nhộn nhịp, học viên, khách hàng khắp nơi tìm đến. Người thợ đá Ngũ Hành Sơn được tín nhiệm mời điêu khắc, tạc tượng, phô diễn tài năng ở những công trình lớn trong và ngoài nước. Rất nhiều trong số này là học trò của nghệ nhân Nguyễn Việt Minh.
Giữ gìn bản sắc
Có lần, một đoàn khách Ý, vốn là bậc thầy về điêu khắc đá, quê hương của những pho tượng Phục Hưng bất hủ – chiêm ngưỡi tượng lân ở Hội An. Họ tấm tắc khen nghệ nhân Ngũ Hành Sơn giỏi, bởi bỏ được viên ngọc vào miệng lân mà không ai có thể tùy tiện lấy ra được, trừ khi đập bể! Thực ra, theo nghệ nhân Nguyễn Việt Minh, đó không chỉ tài nghệ mà còn là công phu nghề đá Ngũ Hành Sơn. Viên ngọc ấy vốn dĩ là khối đá liền, nghệ nhân tỉ mỉ đục đẽo, mài dũa cho đến khi viên ngọc thành hình và ở nguyên trong miệng rồng, chứ không ai có thể đưa vào được. Thời chưa có máy móc hỗ trợ, để tạc được một viên ngọc, có khi nghệ nhân mất hàng tháng trời công phu.
Lại nói về ngày trước, nghệ nhân Nguyễn Việt Minh nhớ lại: “Hồi mới học nghề, tôi suốt ngày phải mài mũi ve đục đá, mài cho đến khi cạo thử lông tay thấy ngọt xợt mới đạt. Còn chế tác được một bức tượng cao tầm 60cm thì kỳ công lắm, mất hai, ba năm trời. Kỹ thuật thời trước cũng chưa làm tượng to được. Để tạc tượng, trước tiên phải chọn đá. Phiến đá tìm thấy, gõ vào tiếng trong như tiếng chuông mới đạt”.
Về con đường “mở” của nghề, ông nói: “Hồi trước, mình làm nghề công phu, nguyên liệu rất tốt nhưng sản phẩm nhìn chung nghèo nàn. Nhờ mở cửa mà học hỏi được rất nhiều, sản phẩm trở nên phong phú, đa dạng. Tôi sang Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ…, thấy trình độ của họ cao lắm, mình còn phải học hỏi rất nhiều. Người Việt được cái chịu khó, chịu khổ giỏi, học hỏi cũng nhanh!” .
Năm nay đã 73 tuổi, từng kinh qua những thăng trầm của làng đá, trong câu chuyện với chúng tôi, một đôi lần nghệ nhân Nguyễn Việt Minh tỏ ra băn khoăn với thế hệ những người nhà chế tác tương lai. Ông sợ rằng, máy móc hiện đại và kinh tế thị trường liệu có làm hư tay người thợ đá, đến một lúc nào đó họ lại phải loay hoay đi tìm bản sắc và kỹ năng truyền lại tự bao đời?
Bất giác, tôi nhớ câu “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Chẳng dám lạm bàn lời lẽ người xưa, ấy vậy, thấy hình như có điều chi gò bó quá? Với nghệ nhân Nguyễn Việt Minh, “nghệ tinh” thì rõ, “thân vinh” cũng có rồi, nhưng hình như có điều chi lớn lao hơn thế, vượt xa khỏi cái “vinh” của một cá nhân. Phải chăng, đó chính là trách nhiệm của một truyền nhân?
Nguyễn Lê
BQL khu DLTC Ngũ Hành Sơn