Ăn cơm dương gian – Nói chuyện Âm phủ

  Động Âm Phủ – Một công trình kiến trúc của tạo hóa

Ngũ Hành Sơn, từ xưa được xem là “Nam Thiên Danh thắng”,đến Ngũ Hành Sơn không những được lễ chùa, trẩy hội mà còn có dịp thưởng ngoạn vẽ đẹp huyền ảo của các hang động. Hệ thống hang động Ngũ Hành Sơn là cả một thế giới kỳ bí, với khả năng kiến tạo của tạo hóa, các hang động tại đây là đề tài của bao truyền thuyết dân gian, là nơi hội tụ cảm hứng thi ca của các “tao nhân, mặc khách”, là “địa chỉ đỏ” một thời đấu tranh oanh liệt của quân dân quận Ngũ Hành Sơn.

Động Âm Phủ, với quy mô và cấu tạo độc đáo của thiên nhiên được xem là một trong những hang động lớn và đẹp nhất trong quần thể các hang động tại Ngũ Hành Sơn. Theo các nhà địa chất học, năm ngọn núi trước đó là những hòn đảo nhỏ, nằm chơ vơ giữa biển Đông, trong quá trình hình thành đồng bằng Quảng Nam và sự bồi đắp của con sông Thu Bồn và những nhánh sông của nó, những hòn đảo nhỏ dần dần được nối vào đất liền tạo ra một quần thể năm ngọn núi cẩm thạch và cho ta một danh thắng ngày nay.

Động Âm phủ nằm dưới chân ngọn Thủy Sơn, cách bờ biển khoảng 800m, được hình thành từ chất cattơ đá vôi – tính chất đá vôi Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, nắng lắm, mưa nhiều và mưa rất to nên đá vôi dễ bị xâm thực, tạo ra những kỳ quan hết sức độc đáo. Tất cả những vẽ đẹp như vịnh Hạ Long, động Hương Tích, động Phong Nha – Kẽ Bàng… đều là những tác phẩm tuyệt tác của đá vôi, động Âm Phủ cũng như các hang động khác tại Ngũ Hành Sơn cũng là những tác phẩm như vậy.

Tuy nhiên, so với các hang động khác ở các tỉnh  phía Bắc, động Âm Phủ và các hang động khác tại Ngũ Hành Sơn không có những cột thạch nhũ treo lũng lẳng thòng xuống từ trên trần động hoặc mọc tua tủa trên các nền động,   các động tại đây đều có lỗ hổng thông ra bên ngoài, vì thế quanh năm khô ráo, có gió lùa mát mẽ, nhiệt độ trung bình từ 18- 20oC nên lúc nào cũng thấy mát lạnh, dễ chịu.

Động Âm Phủ nằm dưới chân núi Thủy Sơn, đường đi lại dễ dàng, vòm động cao, có chỗ cao từ 45 đến 50m, đường vào động phải lên những bậc cấp và qua những vòm đá cong vút, bên trên hành lang đi vào là các vòm đá cao, tối mờ như một đường hầm xuyên núi, cuối hành lang là một vòm đá tự nhiên, từ đó đi dần vào bên trong hang động. Không gian như vỡ òa ra trước mắt, hang động hiện ra cao và rộng.

Xung quanh vách động chia nhiều phân khu tự nhiên, mỗi phân khu cấu tạo như những hang động nhỏ, nằm tách biệt nhau, tùy chỗ rộng hẹp chia đều hợp lý. Trên trần động các thớ đá với đủ sắc màu, đủ hình thù: chim muông, cây lá, con người, thần thánh, vạn vật…tạo ra một thế giới vô cùng trừu tượng. Đi vào bên trong, hang động càng rộng ra, vòm động càng cao hẵn lên. Từ dưới nhìn lên vòm động, con người như đứng giữa một bầu trời thu nhỏ, bên phải là lối xuống một hang sâu, theo các bậc cấp chui qua các eo đá quanh co, khúc khuỷu đến tận cùng đáy hang, sau đó có thể theo một đường khác để đi lên, lối đi này phải qua nhiều eo đá , có chỗ cao, chỗ thấp, có chỗ rất thấp phải cúi đầu chui qua.

Từ dưới hang nhìn lên, các phân khu bên trên hiện ra như những tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy không kém gì các phân cảnh trong động Phong Nha -Quảng Bình hoặc động Thiên Cung – Hạ Long… Bên trái vòm động mới bước vào, là một đường thông ra ngoài vách núi. Đứng từ dưới nhìn lên là một hành lang cheo leo, hiểm trở, muốn lên phải qua các bậc cấp và đi cẩn thận, khi vào sâu bên trong, ở đoạn cuối của vòm động có một lổ hỗng thông lên trời. Bên trên lổ hỗng này có thể nhìn thấy chùa Tam Thai, Linh Ứng và ngắm bao quát toàn cảnh Ngũ Hành Sơn.

Ngoài giá trị về thiên nhiên, về lịch sử, động Âm Phủ còn là nơi lưu truyền những điển tích Phật Giáo về thuyết Nhân – Quả, những tương truyền dân gian đầy thú vị.

Tên gọi Âm Phủ và những điển tích – tương truyền

Vua Minh Mạng của triều đại nhà Nguyễn là vị vua “Kinh bang tế thế”, có công xây dựng nhiều công trình văn hóa, chùa chiền và chú trọng đến sự phát triển đạo pháp. Vào thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khoảng năm 1825, nhà vua vi hành đến Ngũ Hành Sơn trong một lần du sơn, du thủy. Trước vẽ đẹp nên thơ  của quần thể năm ngọn núi, nhà vua cho xây dựng các ngôi chùa lớn tại đây và phong Quốc tự. Dựa theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành và phương vị năm ngọn núi ngài đã đặt tên là Ngũ Hành Sơn và trở thành tên gọi chính thức cho tới ngày nay, các chùa chiền, hang động cũng dựa vào những điển tích Phật giáo mà đặt tên gọi như động Âm Phủ, động Huyền Không, động Huyền Vi, chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng…

Tên gọi động Âm Phủ gắn liền với triết lý nhà Phật: có dương gian, phải có âm phủ, có Niết bàn ắt có địa ngục, có ngày phải có đêm, có sinh phải có tử…đó cũng là quy luật chuyển hóa của thuyết Âm dương Ngũ Hành.

Tên gọi Âm phủ đã đi vào tiềm thức mọi người, ở đó con người sẽ tưởng tượng là nơi đày ải ngục tù của kẻ gây nên nhiều tội ác, là thế giới ma vương cai quản và trừng phạt các tội đồ. Vì thế tên gọi Âm phủ là nỗi ám ảnh thường trực đối với con người ở thế gian, cảnh tỉnh con người luôn hướng đến điều lành, tránh điều dữ, biết ăn ngay, nói thật, biết sám hối, ăn năn, làm nhiều việc thiện để hằng mong khi chết đi khỏi bị đày xuống Âm phủ.

Tương truyền rằng, khi đến Ngũ Hành Sơn, vua Minh Mạng đã nhiều lần khám phá động Âm Phủ, vì đây là hang động tương đối hiểm trở, khó vào, bên trong hang có một đường chui sâu xuống lòng đất. Tại đây nhà vua đã cho quân lính cầm đuốc chui xuống, lạ thay, mỗi lần chui xuống là mỗi lần tắt đuốc, có những người lính cam đảm không cần cầm đuốc để chui xuống động, nhưng tất cả đều thất bại, vì càng xuống càng tối, đường đi quanh co, không khí ẩm ướt, cảm giác ghê sợ nên 12 cây đuốc của 12 người lính chui xuống bị tắt ngấm, phải chui trở lên. Thực hư thế nào chưa rõ, nhưng điều đó chứng tỏ động Âm Phủ rất sâu, rất hiểm trở, nếu không có phương tiện điện, đèn pin như ngày nay thì khó có thể khám phá được hết toàn diện.

Cũng có tương truyền rằng, vua Minh Mạng muốn tìm hiểu động Âm Phủ ăn thông đến đâu, ngài đã viết chữ vào quả bưởi rồi thả xuống hang sâu, hôm sau quả bưởi nhìn thấy trên bãi biển, điều đó chứng tỏ những ngọn núi đây nằm trong lòng biển, các hang động hình thành là do quá trình bào mòn, xâm thực của nước biển. Do vận động của thiên nhiên, biển càng ngày càng rút xa, những khối đá vôi khổng lồ mãi mãi đứng lại và cho ta năm ngọn núi ngày nay.

Mục Kiên Liên – Thanh Đề và 10 tầng địa ngục

Theo Phật tích, Mục Kiền Liên – Thanh Đề là câu chuyện Nhân – Quả, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, là câu chuyện đầy tính nhân văn. Xuất phát từ Phật tích này và dựa vào đặc tính của hang động mà nhà vua đặt tên là động Âm Phủ.

Chuyện kể rằng, Mục Kiền Liên là một trong mười vị đệ tử trung tín của đức Phật, khi chưa đi tu ngài có tên là La Bốc, con của ông Phó tướng và mẹ là bà Thanh Đề, cư ngụ tại thành Vương Xá, Ma Kiệt Đa ở Ấn Độ. Ngay từ nhỏ, ngài có tính hiền lành lại được cha dạy dỗ thương người nên ngài sớm có lòng vị tha, biết giúp đở và chia sẻ những khó khăn của người nghèo. Bà Thanh Đề, họ Lưu, trái lại là người gian ngoan, ích kỷ, tính tự cao, tự đại, hay la mắng và bắt những người giúp việc làm những việc quá mức để thu lợi nhuận. Có lần trong cơn giận dữ, bà cùng những kẻ đồng mưu đốt cháy rụi dãy nhà của giới cùng đinh trong làng, và cũng trong cơn hỏa hoạn này, vì lo cứu người nên ông Phó tướng bị chết. Một hôm, vì một mâu thuẩn nhỏ, bà cùng những giới tu sĩ Bà La Môn bất thiện âm mưu nấu thịt chó cho các vị tăng sĩ Phật giáo ăn rồi rêu rao khắp bàn dân thiên hạ (tuy nhiên, do biết trước, các vị tăng sĩ đã dấu thịt chó vào tay áo và đem về chôn), bà Thanh Đề với bản chất tham tàn, bạo ngược nên ngày càng dấn sâu vào tội ác.

Buồn vì không khuyên được mẹ, La Bốc ra đi và sau đó đến xin đức Phật  xuất gia, thành tu sĩ và lấy pháp danh là Mục Kiền Liên.

Do gây nhiều nhân xấu, bà Thanh Đề sau khi bị chết đày xuống âm phủ,  qua 10 tầng địa ngục: ngục Nhân Quan, ngục Xảo Minh, ngục Bác Hoạch, ngục Kiếm Thụ Đao Sơn, ngục Khôi Hà, ngục Đồng Trụ, ngục Hà Băng, ngục Hắc Ám, ngục Canh Thiệt và ngục A tỳ và giam giử tại đó, đây là ngục có nhiều hình phạt khắc nghiệt nhất, bát cơm bưng ăn sẽ hóa thành lửa. Thương mẹ, Mục Kiền Liên đã dùng thần thông để xuống âm phủ tìm thăm và giúp mẹ, nhưng theo lẽ công bằng ai làm nấy chịu nên không thể giúp được gì. Quá thương mẹ, ngài về thưa với đức Phật xin độ trì cứu giúp. Xét thấy tấm lòng hiểu để của Mục Kiền Liên, ngài đã cùng chư tăng làm lễ cầu an cho bà để mau giải thoát. Quả nhiên, sau đó bà Thanh Đề được tha khỏi ngục, biết ăn năn sám hối và tiếp tục tu tâm sửa tính để trở lại cuộc sống an vui hạnh phúc.

Âm Phủ -Thế giới của những ma vương, tội đồ

Âm Phủ là thế giới của người chết. Theo quan niệm luân hồi của Phật giáo, chết không phải là hết mà là sự chuyển tiếp để đầu thai về cảnh giới khác. Có sáu cảnh giới gọi là Lục Đạo Tam Đồ: Thiên – Nhơn – Atula – Địa Ngục – Ngọa Quỷ – Súc Sinh. Người có nhiều tích thiện sẽ được siêu thoát, kẻ gây nên tội ác sẽ bị đọa đày. Thiện và ác đến đây sẽ được phân minh, số kiếp con người cứ theo vòng luân chuyển, biến thiên vô tận.

Theo luật Âm ty, con người khi chết, bị đày xuống Âm phủ phải qua chiếc cầu NẠI HÀ định mệnh. Sông NẠI HÀ có dòng nước đen ngòm, có nhiều thuồng luồng, các sấu, rắn độc và thú dữ. Dòng sông chia làm hai phần: bên sinh – bên tử. Nếu tại thế gian ai làm việc thiện thì khi chết linh hồn người đó sẽ được Long Thần Hộ Pháp đưa qua cầu nhẹ nhàng, thanh thản, nếu ngược lại, ai làm việc ác, sẽ bị chó dữ rượt đuổi, xô đẩy xuống sông làm mồi cho các loài thú dữ. Vì chuyển tải quá nhiều nghiệp chướng nên chiếc cầu NẠI HÀ thay vì vồng lên hoặc ngang bằng như những chiếc cầu trên trần thế thì lại võng xuống một cách cam chịu, nặng nề. Nhìn kỷ trên mặt cầu ta sẽ thấy những mạng lưới quay tròn cùng chạy về một  tâm điểm, phải chăng đây là mạng lưới trời, tuy thưa mà khó lọt. 12 thân trụ trên thành cầu là 12 con giáp, biểu trưng cho 12 căn số. Và trong mỗi căn số đó, ai cũng một lần đi qua dòng sông này !.

Trước khi qua sông NẠI HÀ, ông THIỆN và ông ÁC đứng 2 bên, đại biểu cho 2 mặt trong đời sống một con người, có nhiệm vụ như thần Hộ Pháp canh giữ cửa động nghiêm ngặt ngày đêm.

Qua khỏi cầu NẠI HÀ, trên các bậc tam cấp là 2 ngọn nến trắng, cao hơn 2m gọi là Đèn Cầu Hồn. Theo quan niệm phương Đông, những ngọn nến trắng thắp lên khi có người chết, ánh sáng sẽ đưa người về cõi u minh vĩnh hằng một cách nhẹ nhàng, thanh thản.

Lối vào Âm Phủ phải qua một vòm đá cong như đường hầm, tranh tối, tranh sáng. Sát vách đường hầm ấy là hai tượng Tả Ty và Hữu Ty, hai vị này có nhiệm vụ đưa hồn về PHÁN QUAN ĐIỆN, để từ đó tùy theo tội trạng mà ngài PHÁN QUAN sẽ phán xét. Động Âm Phủ tại danh thắng Ngũ Hành Sơn vừa là công trình kiến tạo độc đáo của thiên nhiên, vừa là sản phẩm tưởng tượng vô cùng phong phú của con người. Cái ngẫu nhiên của tạo hóa lại là cái hữu ý của con người. Các phân khu được thiên nhiên cấu tạo rất hợp lý đến không ngờ, để từ đó con người sắp xếp, xây dựng nên sự tích Âm Phủ bằng đá cẩm thạch một các hoàn chỉnh: khu Phán Quan Điện, Khu Minh Vương Điện, Khu Địa Tạng Bảo Tòa, đường hầm xuống 10 tầng địa ngục, đường lên Thiên Thai Giới, Anh Linh Đài đến chiếc cầu Nại Hà bên ngoài v.v…là một kiệt tác trong bố cục của thế giới Âm Phủ.

Sự tích Âm Phủ là một câu chuyện dài đầy hoang tưởng. Đến Ngũ Hành Sơn, vào thăm động Âm Phủ sẽ cho ta cái nhìn khái quát về một thế giới tồn tại giữa Ác và Thiện. Cái Ác sẽ bị trừng phạt, cái Thiện sẽ được thăng hoa.  Chuyện Âm Phủ là bài học Nhân – Quả, răn đe con người nên làm điều lành, tránh điều dữ, biết hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn trong một thế giới hòa bình, an vui và hạnh phúc.

Ta bước xuống Âm Phủ – Ngũ Hành Sơn không phải để xuống 10 tầng địa ngục, mà chỉ để cảm nhận từ lòng đất này một nguồn suối nuôi dưỡng nhiệm màu cho sự sống mà thôi./.

Lê Quang TươiTrưởng ban

Ban quản lý khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn