HƯƠNG XUÂN ĐONG ĐẦY Ở NON NƯỚC SƠN

               Du lịch là một trong những trải nghiệm thư giãn, tìm kiếm những vùng đất mới, hành trình mới, đi tìm những văn hóa ẩm thực và làm quen với những con người mới. Có rất nhiều người thích trải nghiệm mang tính hưởng thụ, đến một nơi nào đó để tận hưởng không khí trong lành, thưởng thức món ngon đặc sản vùng miền tại đấy. Tuy nhiên, một số người lại muốn chuyến du lịch của mình trở nên đáng nhớ hơn bằng một cuộc “ phiêu lưu” leo núi. Chinh phục những ngọn núi là một trong những cách tuyệt vời để du lịch, một trải nghiệm thực tế đầy bất ngờ. Nếu không thể nằm dài trên một đồng cỏ xanh dưới bầu trời đầy sao hay chạy chơi đùa với những con dê núi như cô bé Heidi và cậu bé chăn cừu Peter nghịch ngợm trên dãy núi Alps tươi đẹp thì thiên nhiên mà ngọn núi ấy mang đến cho bạn sẽ gần gũi, chân thực hơn bao giờ hết. Cách xa thế giới văn minh, nhộn nhịp và ôm lấy sự thanh bình, tĩnh lặng, núi non sẽ dạy bạn những nền văn hóa nằm ngoài giới hạn của bạn. Mang một vẻ đẹp của trầm tích, ở Đà Nẵng – một thành phố trẻ trung của nắng vàng biển xanh nằm trên dải đất hẹp nhất của đất nước – có sự ẩn hiện kỳ vĩ của một dải núi tuyệt đẹp mang cái tên rất đỗi kiêu kì – Ngũ Hành Sơn. Người ta tìm đến nơi này không chỉ bởi vẻ đẹp ấn tượng của nó mà bời nơi này còn có một sức hút kỳ lạ đến mức chỉ cần đặt chân lên nơi đây, hít một hơi đầy cái không khí sảng khoái ấy, tất cả cảm xúc, nổi niềm đều được vỗ về.

            Mới hôm nào hè còn rực rỡ, rồi thu vàng phơi phới gõ cửa, chóng vánh lắm đã đến đông. Hôm nào còn lạc trong cảm giác mơ hồ về thời gian khi mà tờ lịch dương đã dở những trang đầu tiên còn tờ lịch âm vẫn còn vài trang cũ nữa chưa bóc hết thì…òa một cái, tháng Giêng về trong cảm xúc ngọt lành. Tháng Giêng về sau những vội vàng, tất bật của những ngày cuối năm để mới đâu đó còn hối hả ngược xuôi thì chỉ qua một đêm đã thấy lòng xốn xang trong khoảnh khắc giao thừa ấy là Tết. Giêng về Non Nước sơn cũng thật rộn rã, ấm áp cả một miền tâm linh, hối hả theo bước chân của dòng người trẩy hội, khẽ khàng một một chồi non mới rộ ngày đầu năm, ngại ngùng trong buổi sớm mai đầy sương mù giăng tỏa lãng đãng để rồi chợt biến tan nhanh trong nắng lung linh của vầng mặt trời đầu ngày lấp ló, của những buổi chiều tà trôi nhanh với cơn gió nhẹ êm như gót ngà của thiếu nữ.

Tết đã “phủ” khắp Danh thắng Ngũ Hành Sơn

            Ngũ Hành Sơn vốn dĩ là một địa điểm trong quá trình mở cõi. Nếu quan sát kỹ địa hình thành phố Đà Nẵng như lòng bàn tay ngửa, vuông vức với đầy đủ các nhân tố của một vùng đất linh thiêng. Tính từ Đông sang Tây, năm đỉnh núi gồm: Ngũ Hành Sơn, Phước Tường, núi Chúa, Hải Vân và Sơn Trà được ví như năm đầu ngón tay bao bọc xung quanh che chở lòng bàn tay là thành phố Đà Nẵng. Ngoài ra, Ngũ Hành Sơn cùng với núi Sơn Trà tạo nên thế đất mà Kiến trúc sư Hồ Duy Diệm cho rằng theo thuật phong thủy gọi là “ rồng chầu hổ phục” cho Đà Nẵng. Ngũ Hành Sơn – không gian đặc trưng của vùng văn hóa xứ Quảng, ở đây có những ngọn núi đá vôi là danh thắng nổi tiếng của cả nước. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí viết Giữa động cát nổi lên sáu ngọn núi đá vôi, sông Cái lượn phía Tây, biển cả bao phía Đông Bắc, hình núi nhọn đẹp, trời tạnh nhìn ở xa sắc như mây gấm, thật là đáng yêu…”. Ngũ Hành Sơn ngay từ năm tháng đầu tiên là những hòn đảo, vào kỷ Đệ tứ sau khi nước biển rút, những hòn đảo này được nối với đất liền do vận động nâng lên của Trường Sơn Nam cùng với sự bồi tụ của phù sa sông và phù sa biển bởi vậy mới có câu “ Phù nhất thiên niên tiền Ngũ Hành nhất đảo, nhất thiên niên hậu vị Ngũ Hành”. Thế nhưng trong tiềm thức của người dân mộc mạc, chất phác nơi đây, những trầm tích xinh đẹp được “ sinh” ra bởi sự ngẫu hứng quả tạo tác ấy lại hóa thân trong một câu chuyện cổ tích như hư như thực – thuở đất trời còn hỗn mang, vợ Long vương vượt biển Đông vào đây đẻ trứng trên bãi cát, nhờ thần Kim Quy bảo vệ. Qua nhiều năm hấp thụ khí âm dương, một hôm trời nổi sấm sét, đất chuyển ầm ầm, trứng rồng nứt vỏ, một Long Nữ chào đời bay thẳng về trời, những mảnh vỡ trứng biến thành năm ngọn núi. Dẫu rằng đậm màu sắc thần thoại là vậy nhưng truyền tích ấy vẫn văng vẳng suốt mấy trăm năm qua để mỗi độ Tết đến xuân về, theo chân du khách thập phương lại rạo rực sức sống lạ thường qua lời kể của cô hướng dẫn viên xinh đẹp, bùi ngùi trong mùi nhang phảng phất hơi ấm ngày đầu năm.

            Ngày Tết truyền thống với nhiều gia đình là thời gian tất bật chuẩn bị mâm cỗ, tiệc tùng, gặp gỡ người thân và bạn bè hay chỉ đơn giản là “ ăn no ngủ kĩ” nhưng với nhiều người, ngày Xuân đoàn viên còn là dịp lên chùa đi lễ cầu may cho cả năm dài đang tới để nhìn lại chính mình trong thời gian qua, để chiêm nghiệm nhiều điều trong cuộc sống, để hướng về giá trị của tâm linh, để thưa hỏi đạo lý. Thế nên, dù có chen chân trong đông đúc, dù có khói hương bay mờ cay mắt thì đi lễ chùa đầu xuân vẫn là thói quen của nhiều người, hương vị xuân nơi cửa thiền cũng trở thành niềm vui bình an, thanh thản của tâm hồn. Ngay từ sáng sớm, chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng đã nô nức không khí năm mới, dập dìu người đến thi lễ. Vỗn dĩ ngày thường nơi đây không hề vắng bóng khách hành hương mà có lẽ hơi xuân đong đầy, rôm rả câu chúc Tết an khang trộn lẫn trong tà áo dài thướt tha với tiếng nói cười giòn giã vô tình dệt nên một ngày viếng chùa đặc biệt hơn bao giờ hết. Ngỡ ngàng khi chồi non trước chùa Tam Tôn đã vươn mình ra khỏi kén, ngọn tre già bên lối dẫn vào Tam Thai cũng rủ hết hơi sương cả màu xanh nõn nà của cây thị trăm tuổi sau Ứng Chơn tự, tất cả như cuống quýt tìm nơi gói cất cái nắng vàng như mật ong chảy tràn trên từng mái ngói lưỡng long chầu nguyệt. Sự cộng hưởng nở rộ ở mọi ngóc ngách trên Non Nước sơn đủ làm người thưởng lãm giật mình băn khoăn đất trời ươm Tết tự bao giờ? Dù có rất đông người nhưng khu vực chánh điện của chùa vẫn trật tự, luôn im lặng của một chốn thanh tịnh, thành kính dâng hương. Bóng các bà, các chị lầm rầm khấn vái như một gia vị đủ làm người ta cảm thấy chốn thiêng vẫn có chút gần gũi với đời. Cái lạnh đầu năm thường thì cứ ngọt lịm nhưng khói hương tỏa ra từ bàn thờ Phật hòa vào sương khói của thiên nhiên làm ấm cả không gian nơi thiền môn. Đi chùa không đơn thuần chỉ là đến ngôi chùa nào đó, thắp nén nhang và cầu nguyện mà là sợi dây liên kết giữa tâm linh tình cảm của con người với ngôi chùa mà mình hay lui tới. Khi đó ngôi chùa như trở thành một nơi linh thiêng duy nhất để gửi gắm tâm tư, nguyện cầu. Vì vậy thật khó để tìm được lời giải đáp tại sao không đi ngôi chùa này mà lại thích ngôi chùa kia. Minh chứng rõ nét nhất chính là Luân Hoán – một nhà thơ xứ Quảng, dẫu rằng đang ở trời Tây mà trong áng thơ của anh vẫn da diết nỗi nhớ thương về quê nhà, về Ngũ Hành Sơn, về Tam Thai Tự:

Bay theo chuông mõ Tam Thai tự,

Lạc vào tranh lụa của người xưa.

Bồng lai tiên cảnh trong huyền thoại,

Hẳn cũng cau mày ấm ức thua.

Lễ chùa đầu xuân tại Tam Thai Tự

               Như thế, Danh thắng Ngũ Hành Sơn không chỉ mang vẻ đẹp vượt ngưỡng dương gian mà hệ thống các ngôi cổ tự nơi đây còn là cả miền tâm linh Phật pháp mà người người mong muốn tìm về. Sự linh thiêng của Tam Thai hay Linh Ứng ở chốn non nước hữu tình này hẳn không chỉ là câu chuyện truyền miệng hoặc một lời nói suông. Không phải ngẫu nhiên mà Ngũ Hành được tôn danh là “ vùng đất Phật”. Nhắc đến cái “ tầm” của Ngũ Hành Sơn chính là nhắc đến những con người “ lớn” và một khi đề cập về con người “ lớn” thì không thể không nói tới đức độ cao sâu của thiền sư Huệ Đạo Minh – người góp công không nhỏ làm nên sự nổi tiếng của thắng tích này. Muộn nhất là vào năm 1631, thiền sư đã đến Ngũ Hành Sơn tu sửa Phật tích, xây dựng đạo tràng và truyền bá Phật pháp. Văn bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật nói về việc Thiền sư Huệ Đạo Minh cùng tín hữu gần xa lo việc Phật sự ở Ngũ Hành Sơn như dựng chùa, tạc tượng Phật đồng thời thể hiện sự tán thành và cầu nguyện Phật pháp độ trì cứu rỗi chúng sanh. Văn bia còn khắc ghi danh sách công đức cúng dường của cả người Việt, người Nhật và người Trung Hoa. Lê Mạnh Thát – nhà nghiên cứu Phật học uy tín của Việt Nam đã viết “ điều này chứng tỏ Phật giáo Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XVII đã hội nhập và mang tính quốc tế cao, thu hút sự quan tâm và sùng bái của không chỉ dân tộc mình mà của cả dân tộc khác. Thêm vào đó sự xuất hiện của người ngoại quốc ở vùng núi Ngũ Hành Sơn chứng tỏ vùng đất này từ rất lâu đã trở thành một trung tâm văn hóa của cảng Hội An và là một bộ phận của thành phố thương mại này”. Sự kiện ấy càng giúp chúng ta hiểu rõ vì sao đến cuối thế kỷ XVII, khi thiền sư Thích Đại Sán trên đường hoằng hóa ở nước ta đã qua lại Ngũ Hành Sơn một thời gian. Vì vậy càng khẳng định rằng không chỉ mới hôm nay mà từ bốn trăm năm trước, Ngũ Hành Sơn đã là một trung tâm Phật giáo nức tiếng gần xa. Hồn thiêng nằm ở cả một bề dày lịch sử, in đậm trong từng thế núi dáng sông không phải nơi nào cũng có thể bì kịp.

            Sự biến động của lịch sử nước nhà lại càng cho thấy rõ Non Nước sơn thực sự là miền tâm linh mà người ta ngưỡng vọng. Thế kỉ XIX là thời kỳ chất chứa đầy rẫy sự bất ổn, khủng hoảng và cuối cùng xã hội rơi vào loạn lạc, nô lệ ngoại bang. Tình hình đó gây tác động đến mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có tôn giáo. Phật giáo thời Nguyễn vì vậy mất dần tính cách của một tôn giáo uyên bác, trí tuệ, sắc thái thiền học mờ nhạt trong tất cả các tôn phái, trái lại sa vào cúng cấp cầu cạnh, kỷ cương giới luật bị vi phạm. Thượng tọa Mật Thể viết ra những dòng chua chát “ từ đây trở đi trong lịch sử không thấy ghi chép gì để căn cứ một giai đoạn vẻ vang cho lịch sử Phật giáo nữa…Đên đây, từ trên vua quan đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo Phật là ở sự cúng cấp cầu đảo chứ không biết gì khác nữa. Và phần đông họ chỉ tôn trọng ông thầy ở chỗ danh vọng, chức tước mặc dù ông thầy ấy thiếu học, thiếu tu. Bởi tệ hại ấy làm cho tăng đồ trong nước lần lần sa vào con đường trụy lạc, cờ bạc rượu chè, đắm trước thanh sắc. Ôi! Tinh thần Phật giáo đến đây hầu như đã tuyệt diệt”. Là một bộ phận của Phật giáo dân tộc, Phật giáo Quảng Nam nói chung và ở Ngũ Hành Sơn nó riêng khó có thể vận động ra ngoài quỹ đạo đó. Tuy nhiên, không như nhiều địa phương, Phật giáo ở Non Nước còn chịu sự chi phối bởi một bối cảnh riêng khác, đó là sự quan tâm, bảo trợ của triều đình nhà Nguyễn. Từ thời vua Minh Mạng đã lệnh cho tôn tạo Ngũ Hành Sơn trong đó chủ yếu là xây dựng và sửa sang các chùa chiền, tô tượng, đúc chuông, ban cấp kinh sách, thực hiện các nghi lễ Phật giáo, ban thưởng hậu cho các tự viện, các chùa Tam Thai, Linh Ứng được ban sắc tứ. Sau lễ đăng quang tại điện Thái Hòa, vua Thiệu Trị nối ngôi đã xuống dụ tổ chức lễ trai đàn tại các chùa Tam Thai, Từ Tâm, Ứng Chơn, Hoa Nghiêm ở Ngũ Hành Sơn để ăn mừng. Vua Tự Đức cũng có những ân điển đối với các chùa ở đây, chính nhà vua đã cho phép liệt hai chùa Tam Thai và Ứng Chơn vào loại quan tự – chùa công vào năm thứ 36 (1883); đây là một hành động tỏ rõ thái độ ưu ái Phật giáo của một vị vua vốn dĩ sùng bái đạo Nho. Trong mười mấy năm trị vì của mình, vua Thành Thái tiếp tục duy trì chế độ chùa quan đối với Tam Thai và Linh Ứng đồng thời ân chuẩn cho nhiều hoạt động khác như tu sửa chùa, cấp kinh phí để tạo khắc lại các tấm biển của chùa; đặc biệt vào năm thứ 14 (1902) vua xa giá đến Ngũ Hành Sơn duyệt lãm, chuẩn tụng kinh ở chùa Tam Thai 3 ngày và ban thưởng hậu cho thiền sư trụ trì; có lẽ đây cũng là lần cuối cùng của Phật giáo ở Ngũ Hành Sơn vinh hạnh đón rước các thiên tử nhà Nguyễn đến vãn cảnh và xiển dương Phật giáo. Dù rằng mắc cạn trong loạn lạc của xã hội, bất ổn của chính trị nhưng với sự nâng đỡ của triều đình, sứ mến mộ công đức của thập phương đạo hữu, chốn thiêng Ngũ Hành vẫn vững vàng trong guồng xoay chao nghiêng ấy để giữ vẹn nguyên cái uyên bác, thông thái như trước nay đã từng. Ngỡ như với sự ưu ái như vậy, Tam Thai, Linh Ứng không thể phát triển nguy nga, hoành tráng về quy mô do đặc thù của không gian, địa lý thì hẳn phải được tô điểm lộng lẫy, khang trang. Song trong thực tế lại dung dị lạ thường, không choáng ngợp mà vô cùng gần gũi, ấm cúng của nơi đón vua một thuở. Thật ra với nhiều khách du lịch đến với Đà Nẵng sau này dễ bị nhầm lẫn là Đà Nẵng chỉ có chùa Linh Ứng ở bán đảo Sơn Trà. Đây là ngôi chùa hoành tráng nhưng được xây dựng sau cùng, là một trong ba ngôi chùa mang tên Linh Ứng ở Đà Nẵng mà tổ đình đầu tiên chính là ngôi Linh Ứng tự nằm ở Ngũ Hành Sơn. Trong khoảng thời gian dài hàng trăm năm qua, trước khi chùa Linh Ứng Bãi Bụt được xây dựng, nếu muốn được ngắm biển Đông từ ngôi chùa trên núi ở xứ Đà thì người ta chỉ có thể leo lên Linh Ứng Non Nước. Đâu dễ kiếm một ngôi chùa được vua đến chơi, ban chữ, vinh danh và chọn làm chốn Vọng Hải Đài như ngồi chùa này. Tổ đình – quan tự Tam Thai, Linh Ứng là một trong những ngôi chùa cổ kính, linh thiêng ẩn chưa cả một giai thoại Phật giáo để rồi theo thời gian trở thành địa chỉ tâm linh quan trọng của người dân quanh vùng.

Linh Ứng Tự trong những ngày đầu xuân

            Hiểu được cội nguồn quả nhiên sẽ không khó để lý giải sức hút đặc biệt của non nước Ngũ Hành trong những ngày đầu năm như hôm nay, thực sự là nơi an yên dành cho ai cầu kinh bái Phật, là nơi để lòng người được an trú trong sự nhẹ nhàng vì những mong cầu cho thân mà chưa nuôi tâm an lành. Đất trời đang mặc chiếc áo mới cho trần gian, con người cũng thay chiếc áo mới cho mình, chiếc áo khoác trên đôi vai sau một năm oằn gánh công việc, chiếc áo phủ lên tâm hồn ít nhiều khói bụi thế nhân. Cầm nén nhang trên tay, đứng giữa sương mai của một ngày bắt đầu cho bao ngày kì vọng tươi nguyên, giữa những sắc hoa đẹp nhất của một năm, giữa không khí chan hòa, an lành của một mùa khởi đầu cho bao mùa nối nhau ta nhìn lại một chặng đường, một quãng đời, những điều thú vị mà ta đã làm, nhiều điều dang dở mà ta vẫn còn mơ. Như bao chiêc lá mai xanh phải rứt lìa cành để có những cánh hoa vàng rực rỡ, con người cũng phải trút bỏ nỗi buồn, gánh lo toan để hướng về năm mới với niềm an vui và hi vọng để mọi nguyện cầu, mọi giấc mơ sinh thành mùa xuân nối tiếp mùa xuân.

            Khác với sự thanh tịnh ở khu vực chánh điện, bên ngoài sân chùa, người người nô nức du xuân, vãn cảnh, chụp ảnh lưu niệm. Ai ai cũng rạo rực với không khí của Tết, mỗi lứa tuổi có cái ngẫm khác nhau song đều quy lại là niềm vui vỡ òa. Mẹ thiên nhiên quả thật vô cùng yêu chiều Ngũ Hành Sơn, không chỉ ưu ái trong quá trình tạo tác mà trong vài thế kỷ qua cùng với sự vun vén của con người đã làm cho núi non Ngũ Hành trở thành một nghệ thuật của các khu bảo tồn. Dường như ở Non Nước cái gì cũng hiện diện mà còn đẹp lạ lùng, có kiến trúc cổ kính, có gốc cây trăm tuổi đâm chồi nảy lộc, có cội mai vàng ươm, có vạt cỏ rất xanh, có con nắng rất vàng, có cả loài gió nhẹ thơm lừng. Hành trình du xuân của du khách đến Ngũ Hành Sơn đa phần là viếng chùa sau đó ngắm nhìn cảnh sắc được bài trí vô cùng ấn tượng của một danh thắng bước ra từ huyền thoại này. Huyền Không, Vân Thông, Tàng Chơn…là những hang động tuy không nhiều thạch nhũ mà lại có vô số ngóc ngách mà theo dân gian là xuống tận âm phủ và thông thấu đến trời. Không có công trình hiện đại, không có khu vui chơi giải trí nhưng dám cá rằng mỗi bước chân trên “ núi đá hoa cương” sẽ khiến bạn phát cuồng bởi sự đáng yêu của những trầm tích như bức tranh vẽ 3D, khắc họa hình ảnh rất quen của thuở sơ khai, kể những câu chuyện rất lạ ở Ngũ Hành. Vài người hay than thở rằng “ tiếc thay Non Nước đã mất đi cái view trăm năm” khi đứng từ cổng tam quan của Linh Ứng đã không thể thấy được biển rộng nữa, bỗng thấy di tích quốc gia đặc biệt này sao mong manh quá đỗi khi con đường Lê Văn Hiến chạy trước Ngũ Hành Sơn và con đường ven biển Sơn Trà – Điện Ngọc chạy phía sau áp sát vào danh thắng khiến hòn non bộ xinh đẹp của xứ Đà như một ốc đảo lẻ loi giữa rừng bê tông đô thị. Bắt nhịp xu hướng phát triển vốn dĩ là điều tất yếu. Có lớn mạnh mới thấu rõ và càng trân quý giá trị trăm năm luôn hiện hữu để khi mỏi mệt trong cuộc sống bộn bề người ta vẫn còn có nơi để an yên tâm hồn, để những ngày Tết thiêng liêng như hôm nay có chốn để nguyện cầu cho một năm mới đủ đầy. Không nhìn thấy không đồng nghĩa là mất đi vĩnh viễn, cũng như “ cây có cội, sông có nguồn”, được sinh ra từ biển, bằng cách này hay cách khác biển cả vẫn ấp ôm núi non nơi này, hiện diện ở âm thanh mà ta nghe, trong không khí mà ta hít thở. Ngồi trên một tảng đá mòn trước Hang Gió Đông, không khó để cảm nhận được từng đợt gió mát lạnh phả vào mặt – cơn gió mang theo cảm giác khoan khoái, mang theo cả âm thanh rì rào của con sóng xa bờ ngày đêm hối hả ngược xuôi. Để mãn nhãn hơn nữa, thu vào tầm mắt cái nhìn hoàn mỹ nhất trong khoảnh khắc rộn ràng xuân xanh này, vài người sẽ thử sức leo lên động Vân Thông, trườn mình trong lối lên hẹp, dài mà sáng để được đứng trên đỉnh cao của núi ngắm nhìn Ngũ Hành Sơn thay đổi màu theo sắc nắng. Đó là sự kỳ ảo như nhan sắc của một cô gái kiêu sa đang soi mình trên biển Đông bốn mùa lộng gió và thơm mùi muối mặn.

Du xuân phấn khởi trong tiết trời mát mẻ, dịu nhẹ

            Thưởng ngoạn non nước Ngũ Hành trong tiết trời tháng Giêng, đắm say vô vàn điều lý thú ở một miền tâm linh bậc nhất xứ Quảng, ta tự hỏi điều gì thật sự làm nên sự nổi tiếng ấy? Từ cái nhìn địa lý tự nhiên, Ngũ Hành Sơn với sự kiến tạo địa chất trải qua hàng triệu năm từ đó đã làm nên trác tuyệt. Vua Minh Mạng xếp Ngũ Hành vào hạng “ Nam thiên đệ nhất động” quả là không quá. Nhưng liệu chừng đó đã đủ để Ngũ Hành Sơn cuốn hút con người đến đây nhìn ngắm đặc biệt dội vào tâm thức làm bật lên nguồn cảm hứng tột đỉnh để rồi tuôn trào những ý thơ tuyệt mĩ? Trong văn bia chùa Linh Ứng lập năm thứ 9 (1915), các trí thức Nho học đã nhìn nhận thật tinh tế rằng “ Núi nhờ tiên mà nổi tiếng, đất nhờ người tài mà trở nên đẹp đẽ” và rằng “ Danh thắng Ngũ Hành Sơn ở nước Nam ta từ xưa đã là nơi có thiên nhiên tuyệt đẹp. Tuy nhiên không có gót tiên nhân thì khó mà xem là huyền bí”. Thực tế con người có thể ngưỡng mộ, mê mải trước tự nhiên hùng tráng nhưng sẽ ít có cơ hội thổn thức, phản tỉnh nếu cái “ nhiên tạo” đó thiếu đi sự hòa trộn của cái nhân tạo, nhất là nhân tạo đậm chất tâm linh có tác dụng làm sống dậy miền sâu tâm lý. Tâm thái du khách hẳn sẽ không giống nhau sau khi đến Hương Sơn hay núi Yên Tử với Vịnh Hạ Long cho nên sẽ không quá ngạc nhiên khi từ thế kỷ XVII với Thích Đại Sán đến Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu và đặc biệt dưới triều Nguyễn rất nhiều tao nhân mặc khách là Nho sĩ, trí thức quan lại như Trương Quang Đán, Tôn Thất Lãm, Bà Bang Nhãn, Phạm Hầu… đã đến Ngũ Hành Sơn và đều cảm tác thơ ca. Rất thú vị hầu hết trong các thi phẩm đều toát lên vẻ đẹp siêu trần của cảnh trí, bàng bạc chất thoát tục của thiền môn. Thật khó tưởng tượng giá trị, sức hấp dẫn của Ngũ Hành Sơn nếu không có sự góp mặt của Phật giáo liệu người ta có còn hứng thú đến đó nữa hay không?Trung Quốc có “ Tứ Đại Phật Sơn” nổi tiếng là Ngũ Đài Sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn tập trung rất nhiều chùa khiến cho không chỉ tăng đồ mà du khách trong và ngoài nước luôn nườm nượp tìm đến vãn cảnh. Trong đó, Phổ Đà Sơn nổi tiếng về sự linh ứng của Quán Thế Âm Bồ Tát như Ngũ Hành Sơn ở Việt Nam. Vậy Ngũ Hành Sơn với bề dày lịch sử, cảnh quan và văn hóa tâm linh hun đúc cả ngàn năm, là sự giao thoa tiếp biến của hai nên văn hóa Chăm – Việt, với truyền thống Phật giáo và các tín ngưỡng địa phương đã xác lập trong một không gian đặc thù qua hàng chục công trình chùa tháp, hang động…thừa sức để biến Ngũ Hành Sơn trở thành một “ Đại Phật Sơn” ở Việt Nam trong thực tế.

            Lễ chùa đầu năm không phải chỉ có ở “ núi đá cẩm thạch” Ngũ Hành nhưng sẽ là một nét đẹp riêng có, một trải nghiệm hành hương thú vị cho cả những ai đã, đang và sẽ đến nơi đây, là lời mời gọi đầy hứa hẹn cho vô vàn cảm xúc mới mẻ. Hương xuân rộn rã trong lòng – bao nụ cười lấp lánh, giòn tan! Giêng về trong đáy mắt – chiều vẫn chìm trong cái lạnh tàn đông!

Nguyễn Thị Bích Ly – Tổ Quảng Bá du lịch