Dòng sông Cổ Cò

Thế kỷ 19, Cửa Đại (Hội An) ngày càng bị thu hẹp, phù sa bồi lấp khiến các thuyền lớn không còn ghé được cảng. Kể từ đó, Cổ Còtrở thành “dòng sông chết” trôi qua hàng thế kỷ với bao thăng trầm của lịch sử. Người Quảng gần như quên lãng miền sông nước “trên bến, dưới thuyền”này, nơi đã từng đưa người Đà Nẵng trở về với phố cổ. Và hôm nay, câu chuyện tái lập một “dòng chảy” lịch sử, văn hóa giữa hai vùng đất xứ Quảng lại được khơi dậy với nhiều tâm huyết của một thế hệ.

Một dĩ vãng phồn thịnh

Đại Nam nhất thống chí ghi rằng, Lộ Cảnh giang (sông Cổ Cò) nằm ở cuối hai huyện Diên Phước và Hòa Vang. Sông này từ xã Thanh Châu chảy ra phía Bắc, đến phía Tây núi Tam Thai (tức Non Nước ngày nay) và nhập với sông Cẩm Lệ. Ngày xưa, sông Cổ Cò chạy dọc theo phía nam hòn Hỏa Sơn, nay dấu vết chỉ còn lại một dải nước hẹp nối liền hai đoạn sông Ba Chà và Bãi Dài ở phường Hòa Hải (Đà Nẵng). Nơi đây có một bến sông một thời rất đông đúc. Trên bờ, sát chân hòn Dương Hỏa Sơn có miếu Ông Chài, hiện đã đổ nát, trở thành phế tích theo năm tháng.

Cổ Cò nổi tiếng trong lịch sử ngoại thương của xứ Đàng Trong. Dòng sông nối liền tiền cảng Đà Nẵng với thương cảng Hội An rất sầm uất vào thế kỷ 16 đến 17. Ngày ấy, các thương nhân Nhật Bản và Trung Hoa thường sử dụng thủy lộ này để ra vào, buôn bán giữa 2 miền đất này. Do ở vị trí cuối sông và đầu biển, Cổ Cò là một vùng nước lợ có nhiều thủy sản, người dân gần đó sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt. Những người già ở Hội An nhớ lại, nước sông Cổ Cò trong xanh, cảnh vật hai bên bờ rất đẹp, thuyền bè tấp nập, buôn bán sôi động chứ không giống như bây giờ. Khi hỏi về sự tích của dòng sông, các bậc cao niên ở Điện Bàn cho biết, Cổ Cò còn gọi là sông Ưng. Ngày xưa, nước sông rất sâu, mỗi năm đến mùa lũ lụt, người dân trong vùng phải di tản, sợ bị nước cuốn trôi. Nhà cửa ven sông có năm nước dâng cao gần nóc nhà. Đoạn sông Hà Sấu chảy qua làng Hà Lộc (Hà My, Điện Dương) có nhiều cá sấu to. Năm nào, người trong làng cũng bị cá sấu ăn thịt một người. Vì vậy, dân làng đặt tên là Hà Sấu để tưởng nhớ những người dân bị chết oan.

Mùa xuân năm Ất Hợi (1695), nhận lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu, Thích Đại Sán (Thạch Liêm Lão Hòa Thượng, hiệu Đại Sán Hán Ông, một trong những vị thiền sư nổi tiếng của Trung Hoa vào cuối thế kỷ XVII) đã đến vùng Thuận Quảng. Ông lưu trú tại Hội An và du ngoạn  dọc theo các miền đất duyên hải miền Trung. Trong khoảng thời gian này, ngoài việc sáng tác nhiều tác phẩm thi ca, Thích Đại Sán còn ghi chép toàn bộ sự việc có liên quan đến văn hóa, xã hội ở những nơi ông đã đi qua. Trong đó, có những đoạn mô tả thú vị về thương cảng quốc tế Hội An cũng như Cù Lao Chàm vào cuối thế kỷ XVII. Tất cả được tập hợp thành “Hải ngoại kỷ sự” với bài tựa giới thiệu do Đại Việt quốc vương Nguyễn Phúc Chu đề. Tác phẩm này được Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế phiên dịch sang tiếng Việt (xuất bản năm 1963). Nói về Cổ Cò trong một lần đáp thuyền dọc dài theo sông từ Hội An, Thích Đại Sán kể rằng, chợp ngủ trên thuyền chừng nửa giờ, ông đã thấy phương Đông sáng bạch, bằng khoác áo choàng đứng dậy, thấy sóng yên nước lặng. Định thần, vị thiền sư mới nhìn ra, thuyền đã đến Vũng Thùng (Đà Nẵng). Một vùng nước mênh mông có núi bao bọc quanh bờ biển, đá lởm chởm, trên cây vượn trắng nhảy nhót từng bầy, cây trái sum suê, cột buồm lô nhô như rừng rậm. Khi hỏi những người gần đấy, ông mới biết đây là nơi trú ẩn, tránh gió của nhiều đoàn thuyền chở lương vào Hội An. Nói thế để thấy rằng, từ xa xưa, Cổ Cò là một con sông đẹp, có vị thế chiến lược về thương mại, du lịch, thủy lộ chính để nối liền Đà Nẵng với Hội An.

Tiếc thay, một dĩ vãng phồn thịnh giờ đây không còn nữa. Người ta có thể lý giải, do lịch sử, chiến tranh, quá trình phân hóa, bồi đắp của thiên nhiên mà Lộ Cảnh giang thanh bình ngày ấy đã trở thành một “dòng sông chết”. Thế nhưng, điều đáng nói hơn là rất nhiều thế hệ đã vô tình bỏ quên miền sông nước đầy tiềm năng du lịch này. Và như thế, nếu không có ai đó nhắc đến, “khởi động” lại câu chuyện của mấy trăm năm về trước, “Lộ Cảnh giang” sẽ bị xóa nhòa như chính tên gọi của nó từ khi mới khai sinh

Khơi thông một dòng chảy

Dường như thấm đẫm thân phận của một dòng sông nên nhiều nhà văn hóa, lịch sử, kinh tế của Quảng Nam và Đà Nẵng đã dày công nghiên cứu nhiều phương án khả thi nhằm “vực lại” một địa danh đã bị lãng quên. Theo năm tháng, con sông dài 27 km từ Đà Nẵng đến Hội An (trong đó đoạn chảy qua Đà Nẵng 7,4 km, Quảng Nam hơn 19,7 km) đã bị bị bồi lắng, chỉ còn lại một vài khúc sông cạn, ngắn. Riêng khu vực giáp ranh giữa Đà Nẵng và Quảng Nam đã bị lấp hoàn toàn, thậm chí chính quyền hai địa phương trong nhiều năm đã cấp đất cho nhà đầu tư bất động sản, chiếm hết một đoạn sông. Chính vì vậy, khi có ý tưởng khơi thông Cổ Cò, các cơ quan Ban, Ngành của Quảng Nam và Đà Nẵng đã cùng nhau, tìm biện pháp tháo gỡ, tiến hành đổi đất cho nhà đầu tư để có mặt bằng nạo vét lòng sông.

Cuối năm 2012, tại Palm Garden Resort (Hội An), chính quyền của 2 vùng đất xứ Quảng đã quyết tâm xúc tiến dự án khơi thông Cổ Cò. Trên tinh thần khẩn trương, hợp tác, các đối tác đã thống nhất ranh giới, cắm mốc thực địa và chọn nhà đầu tư tham gia các hạn mục nạo vét. Về cơ bản, quy hoạch sẽ theo hướng bám sát hiện trạng, chiều rộng dòng sông đoạn hẹp nhất 90 mét, rộng nhất 160 mét. Tháng 3/2013, UBND tỉnh Quảng Nam đã phê duyệt dự án nạo vét, khơi thông sông Cổ Cò qua địa phận tỉnh Quảng Nam với tổng mức đầu tư lên đến 625 tỷ đồng. Thời gian thực hiện dự án trong vòng 3 năm (2013 – 2015), chia thành 3 hợp phần đầu tư, bao gồm các hạng mục bồi thường, giải phóng mặt bằng, nạo vét, khơi thông và xây dựng các công trình trên tuyến và đảm bảo giao thông đường thủy. Ông Lê Phước Thanh (Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam) cho biết, đây là một dự án lớn, mở ra cơ hội phát triển kinh tế – xã hội cho hai địa phương, nhất là khai thác du lịch, dịch vụ. Do vậy, việc khơi thông phải được thực hiện khẩn trương, trong thời gian sớm nhất có thể. UBND tỉnh cũng đã phê duyệt quy hoạch tổng thể không gian kiến trúc cảnh quan hai bên sông Cổ Cò từ huyện Điện Bàn đến Thành phố Hội An với diện tích 2.600 ha. Chính quyền tại đây đã giao cho một công ty thực hiện theo hình thức BT (xây dựng – khai thác).

Về phía Đà Nẵng, các cấp chính quyền đã và đang chỉ đạo các đơn vị thi công thực hiện nạo vét sông với chiều dài toàn tuyến là 8,5km. UBND thành phố cũng vừa phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật đầu tư xây dựng dự án khơi thông sông Cổ Cò từ Đà Nẵng vào Hội An, Quảng Nam (đoạn 300m tính từ phía Đà Nẵng) với tổng mức tư hơn 8,5 tỷ đồng theo hình thức BT (Xây dựng – Chuyển giao). Chủ tịch thành phố cũng đã chỉ đạo Sở Xây dựng có trách nhiệm giới thiệu các nhà đầu tư đảm bảo năng lực nộp hồ sơ đề xuất thực hiện gói thầu này. Bên cạnh đó, các đơn vị nhận thầu sẽ nạo vét  thêm 300 mét dòng sông (phía Quảng Nam vùng đất dọc sông Cổ Cò tại khu vực phía Nam dự án FPT). Riêng tổng kinh phí đầu tư cho 2 cây cầu bắc qua sông Cổ Cò ở Đà Nẵng cũng đã được phê duyệt với kinh phí lên trên 420 tỉ đồng.

Để khẩn trương phục hồi đường thủy du lịch này, ông Văn Hữu Chiến (Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng) khẳng định, nếu điều kiện kinh tế ở Quảng Nam khó khăn, không thể triển khai dự án đúng tiến độ thì TP.Đà Nẵng sẽ giới thiệu một đơn vị đủ tiềm lực kinh tế đứng ra đầu tư, nạo vét đoạn sông Cổ Cò chảy qua Quảng Nam theo hình thức BT. Dường như thể hiện quyết tâm cao của hai địa phương trong dự án lịch sử này, ông Lê Phước Thanh (Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam) nhấn mạnh, nếu chúng ta chỉ nói mà không làm, không khơi thông được sông Cổ Cò thì chúng ta rất có lỗi với con cháu. Với tâm huyết của một thế hệ như vậy, công chúng tin rằng, Cổ Cò xưa sẽ trở lại như chính dòng chảy của nó qua bao thăng trầm của lịch sử.

Cổ tích được viết lại ?

Có những hoài nghi về tính khả thi của dự án khơi thông toàn tuyến dòng sông Cổ Cò. Thế nhưng trong tâm tưởng của nhiều người dân xứ Quảng, khởi động tuyến du lịch đường sông này sẽ giống như câu chuyện cổ tích được viết lại. Điều đó sẽ xảy ra ? Câu trả lời hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí, năng lực của những người có trách nhiệm. Có nhiều gian nan, tốn kém, thậm chí dự án có thể kéo dài trong nhiều năm nhưng với quyết tâm của các cấp lãnh đạo, mọi người tin rằng, trong tương lai, dòng sông Cổ Cò sẽ là một danh thắng của miền Trung. Nơi ấy sẽ có rất nhiều đoàn thuyền du lịch từ Đà Nẵng xuôi mái về phố cổ Hội An như thời Thích Đại Sán ghé thăm hơn 300 năm về trước.

Dọc dài theo Cổ Cò là nguồn tài nguyên du lịch khá đa dạng, phong phú với nhiều tiềm năng nổi trội. Những bãi biển đẹp, đèo Hải Vân, núi Bà Nà, bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Cù Lao Chàm, phố cổ Hội An, sông Thu Bồn,… đã tạo nên một bức tranh đẹp, lãng mạn thuộc loại bậc nhất của duyên hải miền Trung. Và như thế, chỉ có dòng sông Cổ Cò mới có thể len lỏi qua từng miền đất trù phú, hữu tình, kết nối các điểm du lịch nổi tiếng được du khách trong và ngoài nước biết đến. Một khi thưởng ngoạn phong cảnh bằng đường bộ quá ồn ào, đông đúc, môi trường bị ô nhiễm, nhiều tai nạn,…người ta lại nghĩ ngay đến du lịch bằng đường thủy. Lúc đó, Cổ Cò sẽ trở nên “độc nhất vô nhị” nối liền hai địa danh nổi tiếng Hội An và Đà Nẵng.

Đề cập đến sông Cổ Cò, chúng ta nhớ đến cách đặt vấn đề của ông Nguyễn Bá Thanh trong một cuộc họp HĐND vào cuối năm 2012. Trong góc nhìn tích cực, có lẽ chính ông là người đã gieo trong lòng những người dân Đà Nẵng những viễn cảnh tốt đẹp về địa thế du lịch của dòng sông này. Điều này đúng bởi khi khơi thông tuyến du lịch đường thủy này, vùng đất 2 bên sông (kéo dài 29 km) sẽ trở thành điểm du lịch sinh thái với các khu đô thị nghỉ dưỡng kiểu mẫu, những làng quê mang đậm bản sắc xứ Quảng mộc mạc, chân tình và hiếu khách. Khách du lịch, đặc biệt là khách nước ngoài, đang cần đến những nơi như vậy. Người ta đang tìm một Việt Nam như chính tên gọi của nó chứ không phải bỏ tiền để đến nơi phồn hoa, sầm uất, náo nhiệt, nhà chọc trời, mịt mù khói công nghiệp,…mà xứ sở của họ đang ngập đầy và ngán ngẫm.

Trong điều kiện kinh tế giảm thấp, việc bỏ ra hàng ngàn tỉ đồng cho một dự án là việc làm đáng suy ngẫm. Thế nhưng đối với Cổ Cò, hiệu quả kinh tế, du lịch đem lại chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều lần, chưa kể đến những định lượng về đời sống văn hóa, lịch sử trong quá trình tôn tạo một di tích có từ hàng ngàn năm trước. Cổ tích sẽ được viết lại bằng tâm và lực, bằng tất cả sự đồng lòng, nhiệt tình của một thế hệ đang có đủ điều kiện để tái tạo. Công chúng đang tin tưởng, hoài mong vào sự thành công của dự án. Lưu Cảnh giang ngày ấy sẽ tái hiện như một minh chứng cho sức lao động, cần cù, nhẫn nại của người dân miền Trung nghèo khó này.

Văn Khoa (dothiphattrien.vn)