Nhân chứng k20 – Kỳ 5: Chuyện về những nữ anh hùng ở “xóm mồ côi”?

Dù được khai phá từ sớm, trải qua hàng trăm năm, mức độ tập trung dân cư vẫn còn ít, chỉ khoảng 30 hộ gia đình và vì bị tách biệt giữa đồng trũng nên dân gian đã gọi đây là xóm “Mồ côi”. Hiện nay thuộc tổ 67 phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, đã có tên đường K20 lịch sử, trong đó có bóng hình của những người bà, người mẹ, người chị kiên cường, gạn dạ trong thời kháng chiến chống Mỹ, được tái hiện qua lời kể các nhân chứng sống. Tổ Quảng bá Ban quản lý Khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn xin được gửi đến quý bạn đọc một vài mẫu chuyện về những nữ anh hùng ở “xóm mồ côi”.

– Câu chuyện về chị Huỳnh Thị Thơ, người phụ nữ nổi tiếng gan dạ của K20 thuở ấy, được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Xuất thân trong gia đình có truyền thống cách mạng, sớm giác ngộ và hoạt động tích cực tại địa phương, đã không ít lần người nữ giao liên tên Thơ ấy bị địch bắt và tra tấn dã man, nhưng với khí tiết của người cách mạng, đã giúp chị vững vàng trong thử thách. Ba lần bị địch bắt, lần nào chị cũng kiên quyết bảo vệ cơ sở cách mạng và các đồng chí của mình, chỉ biết cắn răng chịu đựng đau đớn. Trong đó nổi bật là việc chị đã xử lý tình huống nhanh nhạy giải vây cho nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo Quận III trước vòng vây của kẻ thù, trong đó có đồng chí Trần Chanh – Phó Bí thư Quận ủy Quận III trong cuộc họp tại nhà đồng chí Trần Thị Hỷ, là cơ sở cách mạng của ta tại khu căn cứ cách mạng K20. 

Nữ anh hùng LLVTND Huỳnh Thị Thơ

Tháng 10 năm 1972, đồng chí Trần Chanh – Phó Bí thư Quận ủy đang chủ trì một cuộc họp tại nhà đồng chí Trần Thị Hỷ (cơ sở cách mạng của K20) và một số đồng chí khác để nghe báo cáo tình hình. Đang họp thấy có mùi thuốc lá thơm, đồng chí Trần Chanh bảo chị Thơ ra xem có phải cha của mình về không. Vừa bước ra đã thấy một toán lính ngụy, người nữ giao liên Huỳnh Thị Thơ nhanh trí thấy trên áo tên lính thêu chữ Diệu vội nói thật to để đánh động: “Chào thiếu úy Diệu, mời thiếu úy và các anh vào trong nhà chơi uống nước”. Thấy có bóng người trong nhà chạy ra phía sau, tên lính đứng bên cạnh tên Diệu giương súng bắn, chị đã khoát tay nâng nòng súng lên cao, một loạt đạn nổ liên hồi nhưng các đồng chí của ta chạy thoát. Lúc đó, địch hét to “Con nữ Việt cộng ném lựu đạn tụi bay ơi!”. Tất cả bọn địch nằm rạp xuống đất để tránh lựu đạn. Nhân cơ hội đó, chị đã chạy qua nhà hàng xóm, chụp lấy con dao xắt chuối cắt đứt mái tóc dài của mình, cải trang đánh lừa địch, chạy thoát vào cơ sở ẩn náu.

– Câu chuyện về chị Nguyễn Thị Thông và chị Trần Thị Sinh (trong Đội du kích K20) đang vận chuyển vũ khí qua sông Cái, bất ngờ gặp tàu hải quân của Mỹ áp vào. Sợ bị lộ vì trên thuyền có 12 khẩu súng, hai chị đã giả vờ đi mò ốc, vớt rong làm chao đảo lật ghe để giấu súng xuống nước. Chị Sinh là người có nhan sắc, gặp lúc hoàn cảnh ngặt nghèo đành dùng “mỹ nhân kế” để trêu đùa, đánh lạc hướng quân địch. Sau một hồi tàu Mỹ quần qua quần lại vẫn không thấy động tĩnh gì, chúng bỏ đi và chờ đến chiều tối, hai chị lại ngụp lặn dưới dòng sông để vớt súng.

Đáng nhớ nhất là ngày mồng 2 Tết năm 1970, khi các gia đình đang đón Xuân, khoảng 7 giờ sáng, bất ngờ hơn 10 chiếc xe quân sự chở hàng trăm tên lính đổ bộ xuống xóm. Chúng lùng sục từ trong nhà ra tới ngoài đồng rồi bắt bớ dồn dân tập trung tại Trường tiểu học Đa Mặn (trường làng của xóm Đa Phước). Tại đây, chúng dùng bọn chỉ điểm chỉ ra 16 người, trong số đó có 12 chị em bị nghi vấn rồi chở lên Hòa Cường đánh đập dã man. Những người bị bắt khi đó có chị Thông, chị Tâm, chị Sưa, chị Nhỏ… bị chúng lấy dây xích chó cột “3 nụt” tung ớt bột, chích điện vào các ngón chân, đổ nước xà phòng vào miệng. Chị Thông kể: Chúng hỏi cha tôi đi đâu, chị Đừng đi đâu? (hai người nằm trong “sổ đen” của địch) nhưng tôi vẫn khai trước sau như một không biết gì cả. Chúng chuyển số chị em chúng tôi đi các đồn, trạm, từ đặc khu về ty Gia Long (Công an thành phố ngày nay) rồi về nhà lao Hòa Cầm… nhưng không ai hé răng một lời phản bội.

– Câu chuyện về chị Huỳnh Thị Lan – một trong những phụ nữ hoạt động tích cực trong việc vớt xác các chiến sĩ hy sinh trôi sông trong cuộc chiến Mậu Thân 1968. Thời kỳ ấy, mùa xuân Mậu Thân 1968, cuộc chiến vào thời khắc cam go, lực lượng của ta bị tổn thất nhiều, chị Lan, lúc đó đã trên 50 tuổi, cùng với các chị em khác âm thầm vớt xác các chiến sĩ hy sinh trôi sông đưa lên chôn cất. Với sự lanh lợi vượt trội so với nhiều chị em khác cùng tuổi, dưới “vỏ bọc” người làm nông chính hiệu, chị một mình chèo thuyền ra sông vớt từng xác bộ đội ròng rã nhiều ngày vừa tự tay quấn dây thừng kéo xác lên ghe chở vào bờ, chị Lan vừa khâm liệm và vận động các chị em khác ai có chiếu, chăn, màn, nhang đèn, rượu thì ủng hộ để chị tiếp tục chôn hết người này đến người khác.

 Trước việc làm của chị, bọn địch tới gây hấn và cản trở. Chị nói: “Bọn tui là dân làng ở đây, thấy xác trôi thì phải chôn cất. Sống thù, chết bạn. Tui không làm để thúi vậy mấy ông chịu nổi không?” Cuối cùng bọn chúng phải nhượng bộ để chị làm việc nhân nghĩa. Nhắc đến chị Lan, những chị em hoạt động thời đó nói rằng: Rất khâm phục cái tính nhanh nhảu, hoạt bát của chị khi hô hào các chị em “Đứa nào mệt thì ở nhà, đứa nào khỏe thì đi với tao”. Thông tin của chị Lan báo về bao giờ cũng chính xác, thông qua các mật hiệu như hét to “Con bay đi đâu?” để ám chỉ những người lạ mặt tới xóm, nhờ vậy mà anh em ta nhiều phen thoát hiểm.

– Câu chuyện về chị Bùi Thị Lâm, lúc đó là đảng viên trẻ đã có sáng kiến trong việc may băng để tang Bác Hồ trong Lễ truy điệu. Tháng 9 năm 1969, dưới sự kìm kẹp gắt gao của địch, nhưng nhân dân địa phương vẫn tổ chức lễ tang Hồ Chủ tịch tại chùa Khuê Bắc. Chị Bùi Thị Lâm được giao nhiệm vụ chuẩn bị băng để tang Bác cho buổi lễ truy điệu. Nhận nhiệm vụ, chị ra chợ An Thượng mua 2 tấm vải to, một màu đen, một màu vàng giấu dưới rổ rau đem về. Đêm đó, dưới hầm bí mật, trong ánh đèn dầu, chị Lâm đã  nghĩ ra cách cắt 2 tấm vải lớn thành hàng chục mảnh nhỏ, rồi khâu lại, bên màu đen, bên màu vàng. Làm thế cốt để đề phòng khi đang làm lễ, bọn lính có ập vào cũng không có cớ bắt bớ. Nếu không có địch, mọi người gắn mảnh băng tang màu đen tưởng nhớ Bác hoặc khi địch xông vào thì lật lại màu vàng, màu cờ phật để che mắt chúng…

– Câu chuyện về chị Huỳnh Thị Sử, khi mới 16 tuổi đã tham gia cách mạng với nhiệm vụ được giao là làm giao liên trong vai một cô gái nhà nghèo đi bán rau, chị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyển thư từ, tài liệu đến các cơ sở trong sự bố ráp, lùng sục thường xuyên của quân thù. Do bị chỉ điểm, vào ngày 26 tháng 7 năm 1968, bọn địch bất ngờ ập vào nhà chị Sử, dàn quân đào tìm hầm bí mật. Lúc này, tại đây có hai cán bộ lãnh đạo cùng chồng và anh trai chị. Một cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra. Chị Sử bị địch bắt và dùng đủ mọi cực hình tra tấn, nhưng chị không hề khai báo nửa lời.

– Ngoài ra còn có các chị như: Chị Nguyễn Thị Đừng, chị Nguyễn Thị Được (còn gọi là Bốn Rẫm), chị Nguyễn Thị Hải từng bị địch bắt nhiều lần, bị tra tấn chết đi sống lại (ngoài chị Bốn Rẫm đã từ trần, các chị Đừng, Hải hiện đã ở tuổi ngoài 60, hiện sinh sống tại phường Khuê Mỹ). Chị Nguyễn Thị Hường làm giao liên, trên đường vào Đông Hòa (Hòa Hải ngày nay) hoạt động bị lộ và bị chúng bắn hy sinh và các chị khác như Hồ Thị Anh, chị Phùng, chị Diện cũng đã hy sinh hiên ngang trước họng súng kẻ thù. Có lẽ không phải người phụ nữ nào trong bài viết này đều được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng, nhưng những gì họ đã trải qua từ những năm tháng ác liệt đó cũng đủ để thấy rằng họ xứng đáng là những Anh hùng. 

                                                                                                                        Tổ Quảng bá

                                                                                               Ban quản lý khu DLTC Ngũ Hành Sơn

                                                                                        (Tài liệu tham khảo của Đảng ủy P. Khuê Mỹ)